Fori.vn – Sản phẩm tốt – giá tốt nhất
THUẾ KHOÁ
Chính sách thực dân ăn cướp, chẳng những đã tước đoạt mất ruộng đất, của cải, đã xoá bỏ hết mọi quyền lợi, mọi quyền tự do – kể cả quyền tự do thân thể của người dân bản xứ, mà còn bắt họ phải nộp thuế về những mảnh đất cằn cỗi còn lại trong tay họ, nộp thuế về nghề nghiệp sinh sống của họ, nộp cả thuê không khí mà họ thở nữa.
Đột nhiên người ta tăng thuê thân từ một hào lên hai đồng
rưỡi. Những người chưa đến tuổi nộp sưu, nghĩa là dưới 18 tuổi, trước kia không phải đóng góp gì, thì nay phải nộp một thứ thuế nặng gấp mấy lần thuê thân của suất đinh trước kia.
Người ta không những tăng thuế lên gấp bội và bắt những người chưa hề phải đóng góp nay phải đóng góp, mà điều tai hại nhất đối với dân đinh là thuế suất thay đối luôn và người dân bị bắt buộc phải mang nhiều loại thẻ tuỳ thân, thẻ thông hành, do đó mà phải đóng góp hết sức vô lý và có tính chất cưõng bức.
Người An Nam bắt buộc lúc nào cũng phải mang thẻ thuế thân trong người, ai hỏi đến đều phải xuất trình. Thẻ dễ bị nhàu nát và bẩn thỉu, nhưng người nào quên hoặc đánh mất thẻ thì bị bắt và bị tù.
Năm 1919, người ta đã bỏ việc phân hạng đóng thuế thân ồ Bắc Kỳ, chỉ bằng một nghị định của thông sứ. Mọi người dân từ 18 đến 60 tuổi, đều phải nhất luật đóng 5 đồng thuê thân.
Theo một nghị định khác thì bất cứ người An Nam nào không mang thẻ đều có thế bị tù và buộc phải đóng thuế một lần nũa dù trước kia người đó đã nộp rồi.
Để bù vào chỗ hao hụt do đồng bạc bị sụt giá, một viên toàn quyền đã có sáng kiến tăng gấp bội số người phải chịu thuế lên đê bắt các xã phải đóng góp thêm.
*
* *
Người An Nam phải đóng thuế nặng hơn người An Độ, Mã Lai, Nam Dương và Nhật Bản nhiều. Nhưng đòi sông kinh tế ồ Nam Dương, An Độ và Nhật Bản lại cao hơn ở Đông Dương nhiều lắm, dân những nước này có thể đóng góp dễ dàng số thuê” quá nặng đốỉ với người An Nam.
*
* *
Trước thời Pháp thuộc, bộ thuê điền thổ ghi đầy đủ ruộng đất công và mộng đất tư có phân hạng theo loại sản vật trởng trọt. Thuê suất chỉ đánh từ một đến năm hào một mẫu đối với mộng cấy lúa. Đối với các loại ruộng đất khác, thuê” suất đánh từ hai hào đến một đồng tư. Đơn vị diện tích là mẫu tức là một diện tích vuông mỗi cạnh độ 150 thưốc. Chiều dài của một thưốc An Nam thay đổi tuỳ từng tỉnh từ 42, 47 đến 64 xăngtimét, do đó diện tích một mẫu tuỳ nơi có thể là 3.970, 4.900 hoặc 6.200 mét vuông.
Để tăng thêm thu nhập cho Nhà nước, người ta dùng một đơn vị đo đạc, dài 40 xăngtimét, ngắn hơn tất cả các đơn vị thường dùng, vì vậy diện tích một mẫu chỉ còn 3.600 mét vuông. Bằng cách đó thuê điền thổ đã tăng lên nhiều hay ít khác nhau tuỳ từng tỉnh: nơi thì tăng một phần mười, nơi thì tăng một phần ba, nơi bị thiệt thời nhất thì tăng đến hai phần ba.
Từ 1890, thuê” trực thu tăng lên gấp đôi; từ 1896 đến 1898 tăng lên một nửa và cứ như thê tăng lên mãi. Các xã thì cứ nai lưng ra đóng góp; còn biết kêu ai bây giờ? Bóp nặn được thì bọn công sứ lại càng ra tay bóp nặn. Bọn Pháp này cho rằng các xã vẫn ngoan ngoãn nộp đủ thuê thì tức là thuế má chưa đến nỗi quá nặng nê!
*
* *
Hằng năm người ta phân bổ cho mỗi làng phải nộp thuê cho một số đỉnh và một sô ruộng đất các hạng, cần có thêm tiền để chi tiêu chăng? Người ta cứ sửa lại con số, mặc dầu đang giữa năm, rồi người ta bắt các làng phải đóng đủ thuế cho sô đinh, điền cao hơn số quy định đầu năm. Vì thê mà ồ một tỉnh Bắc Kỳ, toàn bộ diện tích chưa tối 120.000 hécta mà bản thống kê lại ghi những 122.000 hécta ruộng và cứ như thế, người An Nam vẫn phải cúi đầu đóng thuế khống cho những ruộng đất không có thực. Có kêu ca cũng chẳng ai thèm nghe!
Không những thuê đã nặng nề mà lại còn thay đổi luôn.
Việc Chính phủ có nhân nhượng phần nào trong việc thu một số khoản thuê lưu thông hàng hoá đã làm cho dân làng bị phiền nhiễu hơn và đã mở đường cho tệ những lạm. Có hôm người ta tha không đánh thuê cho một người gánh một gánh cau, nhưng hôm sau người ta lại bắt người đó đóng thuế tuy gánh một gánh nhẹ hơn. Đánh thuế như vậy thì khó mà công bằng được. Người ta cấp một giấy phép lưu thông cho 150 kilôgam thuốc lào. sắp xếp làm sao để khỏi phải đánh thuế nhiều lần vào cùng một số thuốc đó khi số hàng này đã chuyển sang tay một chủ khác, hay khi 150 kilôgam thuốc đó đã đem chia cho ba, bốn người mua? Chỉ có tuỳ ở các ông nhà đoan, muôn làm gì thì làm chứ không có luật pháp nào cả. Cho nên người An Nam rất sợ nhà đoan, thoáng thấy nhân viên nhà đoan là họ đã vứt ngay giũa đường thúng muốĩ, thúng thuốc lá hay thúng cau mà họ đang gánh trên vai; thà mất của còn hơn là đóng thuê” quá nặng. Có vùng, người An Nam buộc phải nhổ thuốc lào, chặt cau đi, để tránh khỏi bị phiền nhiễu vì các thứ thuê mối.
Năm ngoái, miền trung Trung Kỳ bị điêu đứng vì nạn đói. Không cứu giúp thì chố, Chính phủ còn tăng thuế lên 30%.
Nhiều tỉnh ỏ Nam Kỳ bị nạn lụt phá hoại. Người ta cấm người An Nam bàn đến việc đó và cấm tổ chức lạc quyên giúp đồng bào của họ bị nạn. Hơn nữa, trong lúc dân chúng đói khố vì thiên tai như vậy người ta vẫn bắt dân đóng thuê như thường lệ. Đê thu cho được thuế, đã xảy ra bao nhiêu vụ lạm quyền, bao nhiêu cuộc truy bức thậm tệ đối với dân bị nạn.
Suốt cả năm, ở thành thị cũng như ở nông thôn, ngày nào người ta cũng được mục kích những cuộc bắt bố, khám xét gây nên những cảnh đau xót, thảm thương trong việc thu các thứ thuế. Có lúc thu thuê đã thành một cuộc săn bắt người. Người dân bản xứ nào mà không có tiền nộp kho bạc, chang chịu cho người ta cùm kẹp và cũng chẳng muốn làm việc dưới làn roi vọt, thì trốn biệt một xó và đành chịu chết đói ở đó.
Nhiều người phải bán cả gia tài – bán cả con cái – đê đóng thuê cho Nhà nước đã áp bức, bóc lột họ.
Ở Cao Miên, có nhiều phụ nữ khốn khổ, chân mang xiềng sắt, phải đỉ quét đường. Họ chỉ có một tội là không nộp được thuế.











Để lại một bình luận
Hãy trở thành người đầu tiên bình luận!