Fori.vn – Sản phẩm tốt – giá tốt nhất
THAM LUẬN TẠI ĐẠI HỘI LAN THỨ III QUỐC TẾ CÔNG HỘI ĐỎ
Thưa các đồng chí, tôi xin thông báo với các đồng chí về tình hình giai cấp công nhân ở Đông Dương, một trong những thuộc địa quan trọng nhất của Pháp.
Theo những số liệu thống kê gần đây, ở Đông Dương hiện có 63 xí nghiệp khai mỏ sản xuất 70 vạn tấn than đá, 5 vạn tấn kẽm, 15 vạn tấn chì, 2.500 tấn sắt, 1.500 tấn các kim loại khác, 3.500 } đá quý và 100 kilôgam vàng.
Còn về những ngành công nghiệp khác thì nên lưu ý rằng ồ Đông Dương còn có 140 đồn điền cao su với diện tích chung 3.500 hécta và sản xuất 5.000 tấn. Công nghiệp thực phẩm cũng đắng kê – sản xuất 250 tấn thịt hộp.
100 xí nghiệp tơ lụa sản xuất 100 tấn hàng tơ lụa.
Nếu như kể thêm rằng ồ Đông Dương còn có 355 trạm điện báo, 2.100 kilômét đường sắt và 3 cảng lớn mà mỗi năm bốc dỡ 7-8 triệu tấn hàng khác nhau thì điều đó sẽ cho một quan niệm chung về những lĩnh vực sản xuất mà vô sản Đông Dương đang bỏ sức lao động vào đó.
Ở Đông Dương còn có những xí nghiệp tương đôi lớn: nhà máy ximăng _? có 30.000 công nhân làm thuê, khu mỏ vịnh Hạ [1]
Long có 4.000 công nhân, nhà máy dệt Bắc ) – 3.000 công nhân, đường sắt – 8.000 công nhân.
Ngày làm việc 12-13 tiếng. Trong nông nghiệp ngày làm việc còn dài hơn. Những ngày lễ – và nhiều khi cả những ngày chủ nhật – đều không được đếm xỉa tối. Không có bảo hiếm xã hội cho tuổi già, không có trợ cấp cho lúc bị thương tật hoặc đau ốm. Tiền lương của công nhân không lành nghề không quá 50 phrăng một tháng, còn của công nhân lành nghề – 250 phrăng. Công nhân nhiều khi phải ký những giao kèo một phía, bắt buộc họ phải làm việc cho bọn chủ trong một sô năm nhất định. Theo giao kèo, bọn chủ nhà máy có thể sa thải họ bất kỳ lúc nào, nhưng người công nhân lại không thể bỏ việc trước lúc hết thời hạn như đã quy định trong giao kèo. Trong nông nghiệp, nhiều khi ngay cả thủ tục hình thức đó cũng không được dùng, và cố nông trở thành hầu như nô lệ, như sở hũu riêng của bọn chủ. Đốì với những người không phục tùng, có sẵn cả một hệ thống bắt bố và đánh đập.
Tất nhiên, không thể nói tối tự do bãi công. Một vài cuộc nổi dậy lớn mang tính chất bãi công, không phải là do vận động tuyên truyền gây ra mà là do bị đói, đã bị đàn áp bằng mọi cách tàn ác nhất.
Với sự giúp đỡ hào hiệp của chủ nghĩa đê quốc Pháp, ở Đông Dương thật ra là đã phục hồi chê độ nô lệ. Nô lệ có ba loại: 1) tù khổ sai, mà chính quyền cai trị đã cho bọn chủ các nhà máy sử dụng, sau cả một ngày lao động cho bọn tư bản thì tối đến họ lại trỏ về các nhà tù có biển đề hứa hươu hứa vượn “tự do, bình đẳng và bác ái”; 2) nông nô, có thể bao gồm tất cả người An Nam từ 18 đến 60 tuổi, hằng năm buộc phải đi phu một số ngày nhất định, vả lại, số lượng những ngày đó chỉ là quy định ưốc chừng, còn trên thực tê hầu như không có hạn định. Một phần lớn dân cư đã bị huy động vào việc làm đường, đào kênh và không có bất kỳ một thứ công sá [2]
nào hết. Sô người dân bản xứ chết vì những công việc ấy thật rất lớn; 3) nô lệ, đúng theo nghĩa đầy đủ của từ, họ bị bán và bị mua. Trong việc mua bán này, chính quyền thực dân đã trở thành bọn chủ kinh doanh. Giông như thời chiến tranh, chính quyền thực dân đã tuyến dân bản xứ làm lính – tình nguyện, thì bây giờ chúng lại mộ công nhân – tình nguyện đi các thuộc địa Pháp khác, chủ yếu cho các đảo ồ Thái Bình Dương. Những người An Nam này đến đó bị bán cho bọn chủ đồn điền và chủ nhà máy người châu Âu.
Có một bức thư, đã đăng khắp Đông Dương và đề ngày 17 tháng 3 năm 1924, nói về những tai hoạ khủng khiếp do bệnh sốt rét gây ra trong số những người nô lệ đã bị đưa tối đảo É.\ bức thư yêu yêu cầu phải chấm dứt cái hệ thống bóc lột vô liêm sỉ đối với tình trạng tăm tối của người dân bản xứ.
Giai cấp vô sản không thê làm gì đê chống lại cái hệ thống bóc lột đó, chưa có một tố chức công nhân nào cả. Bộ luật thuộc địa do những nhà khai hoá Pháp soạn ra chính là đê đàn áp bất kỳ một biểu hiện nào có tính tự chủ của người dân bản xứ nói chung và tầng lốp vô sản nói riêng. Theo bộ luật đó, người An Nam không có quyền xuất bản báo chí bằng tiếng mẹ đẻ, không có tự do hội họp và lập hội, bị tước đoạt cả quyền tự do đi lại từ tỉnh này sang tỉnh khác. Đe bảo vệ những luật pháp đó thì có toà án gồm 5-6 quan lại Pháp, chúng xử kín và tuyên án, kể cả án tử hình.
Trước chiến tranh, người An Nam có tổ chức vài hợp tác xã, nhưng chính quyền thực dân đã giải tán chúng, bắt giam những người tổ chức vì nghi là tuyên truyền cách mạng.
Thưa các đồng chí, tình cảnh công nhân An Nam là như thế. Đó là một tình cảnh khủng khiếp, nhưng không phải là không có lốì thoát. Tình hình không phải là không có lốỉ thoát, bồi vì với sự giúp đỡ của các tổ chức cách mạng gần gũi với Quốc tế Công hội đỏ, [3] chúng tôi quyết đập tan lực lượng của chủ nghĩa đê quốc châu Âu áp bức chúng tôi. Nhưng để đạt tối kết quả đó, để thúc đẩy nhanh chóng công cuộc giải phóng của giai cấp vô sản Đông Dương thì cần thiết một điều là các đồng chí chúng ta trong các tổ chức công nhân cách mạng Pháp phải tích cực giúp đỡ chúng tôi trong cuộc đấu tranh giải phóng của chúng tôi. (Vỗ tay vang dội).
In trong sách: Đại hội lần thứ III Quốc tế Công hội đỏ – Báo cáo, bản tốc ký, tiếng Nga, Mátxcơva, 1924, tr.297-299.
[1] Cara: đơn vị trọng lượng đá quý = 0,2 gam. 2) Nhp. m y ximng HlỊi Phlìng.
[2] Nhà máy dệt Nam Định.
[3] Hébrides: đảo nhỏ ở nam Thái Bình Dương.
Để lại một bình luận
Hãy trở thành người đầu tiên bình luận!