Fori.vn – Sản phẩm tốt – giá tốt nhất
Vùng văn hoá Tây Nguyên
Đặc điểm tự nhiên và xã hội
Tây Nguyên bao gồm lãnh thổ của năm tỉnh Gia Lai; Kom Tum; Đắk Lắk; Đắk Nông và Lâm Đồng; nằm gọn trên vùng núi non và cao nguyên phía Tây Trung Bộ. Ở đây tập trung gần hai chục dân tộc. Nếu không kể đến mấy dân tộc phía bắc và người Kinh di cư đến thì các dân tộc lâu đời ở đây thuộc về hai nhóm ngôn ngữ chủ yếu: nhóm Môn- Khơme và nhóm Mã Lai- Đa Đảo.
“Văn hoá Tây Nguyên ” vẫn là quen gọi bao gồm văn hoá của các dân tộc thuộc hai nhóm này. Nhưng đặc trưng văn hoá Tây Nguyên còn thấy ở nhiều dân tộc khác sống trên sườn phía Tây dãy Trường Sơn; suốt một dải từ phía Tây Quảng Bình đến tận Phú Yên. Do đó; đúng nhất nên dùng khái niệm “Văn hoá Tây Nguyên- Trường Sơn”; đậm chất Tây Nguyên hơn.
Mùa lễ hội Tây Nguyên kéo dài suốt mấy tháng 1; 2; 3 dương lịch. Hầu như không gian không lúc nào vắng tiếng chiêng cồng. Lúc ấy; mùa rẫy đã tuốt xong và đã đón kho. Dẫu cho chưa dồi dào nhưng không còn lo cái đói rình rập. Con người có thời giờ nghĩ đến các mối quan hệ với thiên nhiên; tổ tiên. Con người muốn cảm ơn; chia phần thu hoạch cho những lực lượng vô hình đã phù hộ cho họ một năm mưa thuận gió hoà; người yên vật thịnh. đồng thời họ cũng nhắc nhở chúng phải có nhiệm vụ giúp đỡ họ vào năm tới.
Sở dĩ có chuyện giao nhiệm vụ như vậy là vì mối quan hệ giữa người với thần linh khá bình đẳng. Nó phản ánh tinh thần dân chủ thời bộ lạc còn được bảo lưu và phát triển trong cộng đồng công xã các dân tộc Tây Nguyên. Như một công thức không thể thiếu; trong các bài khấn thần linh thường có đoạn:
Ơi! Hỡi các thần….….(kể tên từng vị)
Chúng tôi muốn…….(kể các yêu cầu của con người)
Chúng tôi đã cho các vị……(kể tên các vật hiến tế)
Mong các vị giúp chúng tôi đạt được ý muốn;
Ở một vài nơi còn có thêm một đoạn giao hẹn:
Nếu các vị không giúp chúng tôi
Sang năm chúng tôi sẽ không cúng các vị nữa.
Như vậy; trong các nghị lễ và thái độ ứng xử với thiên nhiên; siêu nhiên (đã được nhân hoá); người Tây Nguyên đi tìm đồng minh; đi tìm bạn; chứ không đi tìm các vị thánh; càng không đi tìm Đức Chúa. Cảm ơn và chia sẻ với bạn bè là đạo lí của đồng bào.
Con người còn nghĩ đến bản thân; đến cộng đồng trong những tháng nông nhàn này. Cũng nhu mọi vật; con người có phần xá và phần hồn đều cần được chăm sóc. Những việc quan trọng như làm nhà rông; làm hay sửa nhà cửa; lễ cưới; lễ cầu an cho người; cho gia súc; sửa sang lại nhà mồ hay làm lễ bỏ mả… đều được làm vào thời gian này. Và bất cứ việc lớn hay nhỏ; việc của cả cộng đồng hay của từng buôn làng; từng người đều trở thành việc chung và luôn thấm nhuần tinh thần và không khí hội hè.
Điều đặc biệt là trong mọi hoạt động văn hoá; phong tục ấy; đồng bào quan niệm luôn luôn có sự tham gia của linh hồn những người đã mất. Đối với nhiều dân tộc Tây Nguyên (Bana; Rơmăm; Xơđăng) cộng đồng công xã có hai phần: cộng đồng hôm nay bao gồm những người đang sống và cộng đồng hôm qua của những người đã chết. Người sống ở trong làng; người chết ở cõi tổ tiên (Mang Lung) một nơi nào đó ở ngay trên mặt đất; về phía Tây của làng. Không thể quan niệm được vì sao người chết biến mất. Họ vẫn cùng “sống” với con cháu bằng cách riêng.
Đồng bào còn tránh đặt tên trùng lặp giữa những thành viên còn sống và kể cả những thành viên đã chết mà trí nhớ mọi người còn rõ. Lại một nét nữa cho thấy tinh thần bình đẳng của chế độ dân chủ hồn nhiên trong tâm thức con người. Hầu hết các dân tộc Việt Nam đều tin vào sự tồn tại vĩnh hằng của tổ tiên. Nhưng ở những dân tộc này; tổ tiên đã tách ra “bên kia”; “bên âm” trong một cộng đồng riêng và trở thành các “Đấng”. Ở nhiều dân tộc Tây Nguyên; tổ tiên vẫn là thành viên “hiện hữu” của cộng đồng.
Do đó; con người được sống trong sự hội nhập sức mạnh của quá khứ và đương đại trong một vô thức; một tất yếu. Vì vậy; truyền thống văn hoá không chỉ là sự “uống nước nhớ nguồn”; không chỉ là “đất lề quê thói” mà là lẽ thường; là đạo lí đương nhiên của cuộc sống.
Đặc điểm văn hoá:
Trên cơ sở vũ trụ quan; thế giới quan; nhân sinh quan như vậy; văn hoá dân tộc; mà thực chất là văn hoá dân gian Tây Nguyên có mặt trong mọi hoạt động của đời sống con người với những mật độ mau; thưa tuỳ theo thời gian trong năm. Vào đầu mùa mưa (thường diễn ra từ cuối tháng 5 dương lịch); các gia đình dọn hẳn vào ở bên cạnh rẫy lúa của mình và ở đó đến cuối tháng 11 khi thóc thu hoạch đã đưa vào kho chứa. Thời gian này vì phải tập trung vào sản xuất; đồng bào không có nhiều hoạt động cộng đồng.
Họ có lễ cầu an cho cây trồng sau khi lúa con gái được làm sạch cỏ. Vào lễ này; mỗi gia đình đem những vò rượu cần làm từ lúa mùa năm trước và được ủ men trên rẫy về làng chung vui. Lễ tạ ơn thần sấm đã làm mưa xuống và tạ ơn Mẹ Lúa Yang S’ri. Đồng bào Tây Nguyên tin rằng trong mỗi cái chiêng đều có thần chiêng (Yang chiêng).
Vì thế có cái chiêng phải đổi bằng voi hay nhiều con trâu do chiêng ấy có thần mạnh. Trong lễ cầu an; khi chiêng được gióng lên là lúc thần chiêng xuất hiện; cao giọng cổ vũ; khen ngợi; cảm ơn thần sấm. Sự hoà đồng của các thần chiêng và thần sấm đem lại sự hứng khởi vô hạn cho đồng bào. Ở đây là sự hội tụ của các lực lượng siêu nhiên; do con người được đối xử như bạn; nên đã biểu hiện ra cho họ thấy chúng hài lòng đến mức nào.
Bằng những hoạt động văn hoá- nghệ thuật; con người Tây Nguyên cổ truyền đã kéo Thiên- siêu nhiên về với mình; trở thành bạn của mình; tham gia như những thành viên thực thụ trong niềm vui chung của cộng đồng. Bằng cách đó; con người chinh phục thiên nhiên; hoà nhập với nó để rồi nhận lấy một niềm tin rằng con người là bạn và do đó được Thiên- siêu nhiên giúp đỡ hết mình. Nhưng con người không thụ động; mà trong tổng thể hoạt động văn hoá nghệ thuật (như trong Lễ cầu an) họ đã tái tạo lại thực tại qua những sáng tạo của mình và bằng cách đó đã in dấu bản sắc người vào thực tại ấy.
Trên thực tế; con người Tây Nguyên tự tin vào mối quan hệ bền vững; tốt đẹp của họ với môi trường. Ở họ không có những động tác cúi rạp mình khi hành lễ và cũng không có những câu cầu xin kiểu “lạy thánh mớ bái” hay “con cắm rơm con cắn cỏ lạy Ngài”. Nhìn từ góc độ “tiến bộ xã hội” như quan niệm ngày nay thì đấy không phải là một trạng thái “lí tưởng”. Tuy nhiên; từ góc độ văn hoá cổ truyền; cái vẻ hoang sơ; huyền thoại trong cuộc sống khiến cho Tây Nguyên còn giữ được những phẩm chất “bản thiện” của con người và chưa bị “tha hoá” bởi các xã hội có giai cấp (ý của Mác).
Và chính cuộc sống mà trong đó hội tụ cả mọi miền thời gian; mọi nẻo không gian cả hiện thực và huyền thoại đã là mảnh đất màu mỡ cho trí tưởng tượng bay bổng; cho sức sáng tạo nghệ thuật thả sức tung hoành. Có vậy mới có một chàng Đăm Săn đòi lấy Nữ Thần Mặt Trời; mới có Đăm Noi cưỡi khiên đánh nhau với quỷ Đrăng Hạ- Đrăng Hưm suốt bảy năm chín tháng. Có vậy; ngày nay chúng ta mới được thừa kế một nền văn học nghệ thuật rất đặc sắc; rất đa dạng; khó có thể tìm thấy ở những nơi khác trên thế giới. Có vậy; ta mới hiểu được; mới phát hiện bên trong vẻ hồn nhiên; chân chất; con người Tây Nguyên ẩn chứa một tâm hồn nghệ sĩ; một tiềm năng sáng tạo nghệ thuật dồi dào.
Nghệ thuật tạc tượng nhà mồ cũng rất đáng chú ý. Phần lớn tượng nhà mồ là tượng người. Tượng được đặt vào quần thể nhà mồ với những cột trang trí; với hàng rào; với hoa văn đan đủ trên mái và với cả phối cảnh địa hình; cây cối nữa trở nên rất sinh động. Có thể nói; để tạo ra một quần thể nhà mồ; trong đó có các tượng tròn; các phù điêu gỗ; các trang trí tre đan; người Tây Nguyên là những nghệ thuật tạo hình xuất sắc.
Một số dân tộc Tây Nguyên như Êđê; Giarai; Bana đã sáng tạo và lưu giữ cho đến nay những tác phẩm nghệ thuật mà xưa nay vẫn gọi là trường ca. Người Êđê gọi đó là khan; ở người Gialai là H’Ri và ở người Bana là H’ămon. Khan Đăm San được biết đến và dịch ra tiếng Pháp; tiếng Việt từ những năm nửa đầu thế kỉ XX. Sau đó là các khan Xinh Nhã; Xinh rú; Đăm noi…
Người Bana An Khê (Gia Lai) gọi việc trình bày là Book H’ămon; tức Ông H’ămon. Đề tài và cốt truyện H’ămon thường nói về các anh hùng thuở khai sáng; những nhân vật cứu loài người; cứu dân tộc khỏi những hiểm hoạ to lớn (phải chăng vì thế mà một số tác giả gọi là sử thi?). Để hát ngâm; đồng bào phân loại các nhân vật thành hai phe Chính- Tà; mỗi phe có một làn điệu âm nhạc riêng. Mỗi nhân vật nam hay nữ trong mỗi phe lại có làn điệu riêng của mình. Thành thử nếu nghe quen thì chỉ cần cất lên làn điệu nào là có thể hiểu ngay; đấy là nhân vật nam hay nữ; thuộc phe chính hay tà.
Trình bày H’ămon bao giờ cũng là một sinh hoạt cộng đồng nghiêm túc; đầy tính chất thiêng liêng; ít nhất bao gồm toàn bộ già trẻ trai gái dân làng sỏ tại; nhưng thường có cả dân các làng gần đấy. Họ ngồi bên ngoài; bao quanh căn nhà sàn; gom thành những nhóm nhỏ; ngồi im lặng quanh những đống lửa nhỏ; vừa rít tẩu thuốc; vừa nghe. Chỉ có mấy vị già làng là ngồi trên nhà; bên bếp lửa ở gian tiếp khách.
Đến với H’ămon là để sống với nó; nên hễ đã bắt đầu trình bày một H’ămon nào đó thì phải kể cho đến hết; dù có phải chia thành nhiều đêm. Nếu bỏ dở; các nhân vật (vốn được tin rằng luôn hiện hữu bên cạnh con người) sẽ không bằng lòng vì số phận của họ không được kể từ gốc đến ngọn. Còn người nghe cũng cần được sống với câu chuyện cho đến khi ngã ngũ; kết thúc. Nhu cầu được sống ấy khiến cho một H’ămon được kể đi kể lại nhiều lần mà dân không chán.
Nói về văn hoá Tây Nguyên mà quên cồng chiêng thì là một thiếu sót lớn. Cồng chiêng được coi như ngôn ngữ để con người giao tiếp với thiên. Trong mỗi chiêng lại có thần chiêng (Yang chéng). Có lẽ vì thế; tiếng chiêng có ý nghĩa thiêng liêng và theo tập quán cổ truyền chỉ được dùng trong các nghi lễ; lễ hội cần thiết.
Trong văn hoá phần lớn các dân tộc Tây Nguyên; cồng chiêng đóng vai trò quán xuyến cuộc sống con người. Với quan niệm cộng đồng gồm hai nửa- hôm qua và hôm nay- thế giới hữu hình luôn có liên hệ với thế giới vô hình mà cồng chiêng; với âm nhạc và sức mạnh thiêng của nó là cầu nối. Người có nhiều cồng chiêng được tôn trọng không phải trước hết vì có nhiều của cải vật chất; mà chính là người ấy có trong nhà nhiều Thần chiêng. Vì thế ông ta (hay bà ta) có bên mình nhiều bạn bè ở thế giới vô hình với quyền năng lớn lao.
Hầu như mọi hoạt động văn hoá đều có cồng chiêng. Khi đứa trẻ sơ sinh Giarai đầy cữ; người lớn đem cái chiêng quý; tương truyền là di vật của người anh hùng trong H’Ri đến bên nó. Ông già làng gióng lên ba hồi chiêng theo nhịp xung trận nếu là bé trai; theo nhịp mùa gặt nếu là bé gái. Hồi chiêng đó đồng bào gọi là chiêng Thổi Tai. Họ quan niệm rằng trẻ sơ sinh vốn là tặng phẩm trời đất ban cho; tai còn kín đặc; muốn cho bé lớn lên thành người của dân tộc; của làng; phải “thổi tai cho bé thông suốt”. Việc đó chỉ có cồng chiêng làm được; với sức mạnh của Thần chiêng.
Theo cách nói ngày nay; ba hồi chiêng được hiểu như những tín hiệu văn hoá dân tộc; được gióng lên để đón lấy một thành viên mới của cộng đồng. Đó là một lời truyền dạy; lời trăng trối của tất cả “cộng đồng hôm qua” cho mỗi con người được sinh ra; được nuôi dưỡng và dạy dỗ để biết sống theo thói ăn; nếp ở của dân tộc. Ba hồi chiêng đầu chỉ là một lễ thức. Đó chính là sự gieo mầm cho văn hoá dân tộc được tiếp nối trong tất cả các thế hệ người.
Đứa trẻ lớn lên thành người trong một không gian đầy nhạc cồng chiêng. Bởi vì bất cứ việc gì quan trọng con người đều muốn thông báo và kêu gọi sự giúp đỡ của thiên siêu nhiên và nhất là của “nửa cộng đồng hôm qua”- tức tổ tiên. Thế là cồng chiêng lại có mặt; chẳng sót nhà nào; nơi nào; việc gì. Tất cả đều phải có nhạc cồng chiêng diễn tấu trong đội hình hình tròn; ngược chiều kim đồng hồ.
Đón con người vào đời là nhạc cồng chiêng. Lại cũng cồng chiêng sẽ tiễn đưa con người ấy ra huyệt mộ để rồi trong lễ bỏ nhà mồ; linh hồn con người đi theo tiếng cồng chiêng mà về với “nửa cộng đồng hôm qua”. Có thể nói; cuộc đời con người Tây Nguyên “dài như tiếng chiêng”. Với chức năng xã hội như vậy; khái niệm “Văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên” được đưa ra là thoả đáng.
Cũng sẽ không sai nếu đưa ra một khái niệm nữa: Nghệ thuật âm nhạc cồng chiêng Tây Nguyên. Xưa kia; mỗi nhà dù nghèo cũng có một bộ. Nhà giàu có đến hàng chục bộ khác nhau. Gọi là một bộ vì đó là một biên chế âm nhạc với một hệ âm thanh chặt chẽ. Tuỳ theo dân tộc; thậm chí; từng nhóm địa phương từng dân tộc; biên chế ấy không giống nhau. Một bộ chiêng cồng có từ 3 đến 15 cái; trong đó; cồng (có núm) và chiêng (không có núm). Cùng với cồng chiêng; còn có trống và ở một số dân tộc còn thêm hai cặp chũm chọe nữa. Theo đồng bào; trống là thần sấm biểu tượng cho Trời; tính nam.
Cồng chiêng biểu tượng cho Đất; tính nữ. Người Giẻ cho rằng trống là Mặt trời; tính nam; cồng là Mặt trăng; tính nữ. Bất kể cồng chiêng và trống được gắn cho biểu tượng gì; ở đâu cũng ẩm giấu một quan niệm lưỡng hợp nguyên sơ về một quá trình sinh sôi nảy nở của cư dân nông nghiệp. Nếu bộ chiêng chỉ có ba chiếc thì thường đó là ba cái cồng (có núm). Âm thanh của chúng cách nhau một quãng năm và quãng bốn. Đó là những quãng cơ bản trong hệ âm thanh thiên nhiên.
Ở Việt Nam nhiều dân tộc dùng chiêng cồng. Nhưng không ở đâu cồng chiêng lại quán xuyến cuộc sống con người và đạt đến trình độ âm nhạc như cồng chiêng Tây Nguyên. Chính phẩm chất này đã khiến “văn hoá cồng chiêng” và “nghệ thuật âm nhạc cồng chiêng” trở thành một đặc điểm nổi bật của vùng văn hoá Tây Nguyên.
Trang phục của phụ nữ Tây Nguyên rất đẹp; vì có nhiều hoa văn; và làm nổi lên một cách kín đáo đường nét của cơ thể. Nhưng nét đặc sắc nhất của Tây Nguyên là ở trang phục nam giới. Họ đóng khố mặc áo; quấn khăn có cài lông chim quý nhiều màu. Đấy là cả một công trình dệt và thêu và là cả một nghệ thuật trang trí phục sức.
Ngoài cái phần để che; khố có vạt trước; vạt sau và nhiều hoa văn; diềm khố có tua bông và dài đến giữa ống chân. Vạt trước dài; vạt sau ngắn xúng xính theo nhịp chân đi làm tôn thêm rất nhiều cái phần cơ thể săn chắc; khoẻ mạnh của người đàn ông. Nếu trời lạnh; họ khoác thêm một tấm vải choàng rộng trên cổ; buông xuống tận đầu gối; mở ra trước ngực. Khi gió lật tấm choàng; có cảm giác như con người hùng dũng ấy sắp sửa bay lên.
Cuối cùng; tất cả những thứ như khố hai vạt với khăn quấn đầu có cắm lông chim; dàn chiêng cồng với cái trống lớn; cối giã gạo hình thuyền và chày đứng; kiểu mái nhà trên nở dưới thót; thuyền độc mộc hình thoi với trang trí ở mũi và mạn…tất cả những thứ ấy dường như mới từ những hình khắc trên trống đồng Ngọc Lũ I trở về với hiện thực. Đến Tây Nguyên ít nhiều có cảm giác như sống trong không gian văn hoá Đông Sơn vậy. Vùng văn hoá Tây Nguyên hay còn có thể gọi là vùng hậu duệ rõ nét nhất của văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam.
Để lại một bình luận
Hãy trở thành người đầu tiên bình luận!