Fori.vn – Sản phẩm tốt – giá tốt nhất
Điều kiện tự nhiên Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á. Vùng Đông Nam châu Á này bao gồm miền chân núi Himalaya và Thiên Sơn. Các dòng sông lớn của khu vực đều bắt nguồn từ hai dãy núi này. Hạ lưu của các dòng sông ấy – Dương Tử; sông Hồng; MêCông; Chaophaya… đều là những vùng đồng bằng màu mỡ; đầy phù sa. Đặc trưng tiêu biểu của vùng này là sự chênh lệch khá lớn giữa bình nguyên và núi rừng; sự chênh lệch tương đối nhỏ giữa bình nguyên và mặt biển. Chính nét đặc trưng này cùng với điều kiện khí hậu nóng ẩm; mưa nhiều và có gió mùa là cơ sở thuận lợi cho việc phát sinh nghề nông trồng lúa nước từ rất sớm với văn hoá Hoà Bình; văn hoá Bắc Sơn.
Việt Nam “nằm giữa Đông Nam Á” (lục địa hải đảo) (Yves Lacoste); “là ngã tư đường của các cư dân và các nền văn minh” (Olov Janse). Việt Nam – bán đảo Đông Dương là đầu cầu vào Đông Nam Á từ hướng Ấn Độ và Trung Quốc. Tính chất bán đảo rõ nét của Việt Nam thể hiện ở khí hậu nóng ẩm; mưa nhiều và có hai mùa gió rõ rệt. Địa hình Việt Nam trải dài (khoảng 15 vĩ độ); núi rừng chiếm 2/3 diện tích; sông ngòi nhiều và phân bố đều khắp.
Đồng bằng chỉ chiếm một tỉ lệ khiêm tốn (chưa đến 1/3 diện tích). Ngoài ra; bao quanh hướng Đông và Nam là bờ biển khoảng hơn 2000 km. Tây và Bắc bị chắn bởi núi rừng; trong đó quan trọng nhất là dãy núi Hoàng Liên Sơn và dãy núi Trường Sơn. Cũng vì vậy mà việc phân bố hệ thống động vật cũng như tập quán canh tác dân tộc Việt Nam là khá tiêu biểu và đặc thù. Ta có thể vạch ra phổ tự nhiên Việt Nam (hay hằng số tự nhiên Việt Nam) như sau : Nhiệt – Ẩm – Gió mùa. Trong đó cân bằng bức xạ ở Việt Nam quanh năm dương; độ ẩm gần như thường xuyên 100%.
Đông Nam Á – Việt Nam được đặc trưng bởi hệ sinh thái phồn tạp (một trong hai loại hình hệ sinh thái tự nhiên của thế giới). Trong hệ sinh thái phồn tạp chỉ số đa dạng giữa số giống loài và số cá thể rất cao; thực vật phát triển hơn so với động vật (động vật dễ bị dịch bệnh do nhiệt ẩm gió mùa) . Trong thời kinh tế thu lượm; hái lượm (phổ rộng) vượt trội hơn săn bắt (bắn); sử dụng đạm thuỷ sản là chính (trong các di chỉ khảo cổ học chủ yếu là dấu tích quả; hạt cây và các động vật sống dưới nước như vỏ sò; vỏ ốc; xương cá… Xương động vật hiếm mà chủ yếu là động vật vừa và nhỏ).
Thời kinh tế nông nghiệp trồng trọt (đa canh) vượt trội hơn chăn nuôi. Trong một hệ sinh thái phồn tạp lại có nhiều vùng sinh thái khác nhau. Theo GS. Đào thế Tuấn; Việt Nam có 10 vùng: Đông Bắc; Tây Bắc; Trung tâm Bắc (châu thổ sông Hồng); Bắc Trung Bộ (Thanh – Nghệ – Tĩnh); Trung Trung Bộ (Bình – Trị – Thiên); Nam Trung Bộ (Quảng Nam – Bình Thuận – Bình Thuận); Bắc Tây Nguyên; Nam Tây Nguyên; Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Còn theo GS. Mai Đình Yên có 19 vùng. Ví dụ vùng đầm phá ven biển Trung Bộ; vùng hải đảo ven bờ; xa bờ; vùng núi; vùng núi; vùng Hà Nội; vùng thành phố Hồ Chí Minh.
Từ góc độ địa lí – văn hoá; chúng ta có thể thể khái quát địa hình Việt Nam – dài Bắc- Nam; hẹp Tây – Đông; đi từ Tây sang Đông có núi – đồi – thung – châu thổ – ven biển – biển và hải đảo. Đi từ Bắc vô Nam là các đèo cắt ngang Tây Đông.
Sự đa dạng của môi trường sinh thái; điều kiện tự nhiên là yếu tố góp phần tạo nên sự đa dạng văn hoá. Trong vô vàn yếu tố tác động đến cuộc sống hàng ngày từ góc độ tự nhiên; các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước hầu như đều nêu bật hai tính trội của văn hoá Việt Nam truyền thống: sông nước và thực vật. Văn minhViệt Nam – nền văn minh thực vật (khái niệm của học giả Pháp P. Gourou) hay văn minh thôn dã; văn hoá lúa nước tính chất thực vật (mà cốt lõi là cây lúa) in dấu ấn đạm nét trong đời sống hàng ngày của người Việt Nam như ở; đi lại; mặc và ăn.
Bữa ăn (bữa cơm) được mô hình hoá Cơm – Rau – Cá cộng với không có thói quen ăn sữa và các sản phẩm từ sữa động vật; không có truyền thống chăn nuôi đại gia súc lấy thịt – chăn nuôi gắn liền với trồng trọt; phục vụ trồng trọt. Tính chất thực vật còn được thể hiện trong đời sống tâm linh mà điển hình là tục thờ cây. Môi trường sông – nước được coi là yếu tố đặc biệt quan trọng khi xem xét những vấn đề văn hoá; con người Việt Nam. Có thể nói đặc trưng nước chính là kết quả tổng thể của những đặc điểm về địa lí; địa hình cũng như khí hậu.
Yếu tố nước mang tính phổ quát và đặc thù này đã tạo nên sắc thái riêng biệt trong tập quán kĩ thuật canh tác (đê; ao; kênh; rạch); cư trú (làng ven sông; trên sông “vạn chài; từ chợ búa; bến ” tới những đô thị ven sông; biển hay ngã ba; ngà tư sông); ở (nhà sàn; nhà mái hình thuyền; nhà – ao; nhà thuyền…) tới tâm lí ứng xử (linh hoạt; mềm mại như nước – chữ dùng của GS. Cao Xuân Huy); sinh hoạt cộng đồng (đua thuyền; bơi chài…); tín ngưỡng; tôn giáo (thờ cá; rắn; thuỷ thần…); phong tục tập quán; thành ngữ; tục ngữ; ca dao; nghệ thuật (chèo; tuồng; rối nước; hò; lí;…) và truyền thống.
Bên cạnh những ưu đãi; thiên nhiên cũng đặt ra cho con người Việt Nam; dân tộc Việt Nam với không ít khó khăn thách thức bằng những tai biến bất ngờ; khí hậu thất thường; lũ lụt; bão tố; ẩm thấp gây vô vàn dịch bệnh cho người; cho động vật; mùa màng. Cuộc đấu tranh kiên cường; chống chọi hàng ngàn năm với những thứ thách này của thiên nhiên đã hun đúc nên tính cách kiên cường; tinh thần cố kết cộng đồng của người Việt mà điển hình là quá trình chinh phục và khám phá châu thổ Bắc Bộ.
Để lại một bình luận
Hãy trở thành người đầu tiên bình luận!