Fori.vn – Sản phẩm tốt – giá tốt nhất
THUỐC
- NHỮNG TRI THỨC BỔ TRỢ
- Lỗ Tấn và quan niệm văn học của ông
Lỗ Tấn (1881 – 1936) tên khai sinh là Chu Chương Thọ, khi đi học đổi thành Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng (nay là thành phố Thiệu Hưng), tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Ông sinh ra trong một gia đình quan lại sa sút. Thuở nhỏ, Lỗ Tấn học tập ở quê nhà. Năm 1898 – 1899, do nhà nghèo, ông lên Nam Kinh học Trường Quân sự hàng hải, Trường Khai mỏ để có học bổng, sau nữa vì nghĩ rằng đất nước Trung Quốc nghèo nàn lạc hậu do khoa học – kỹ thuật kém cỏi.
Năm 1920, Lỗ Tấn học ở Trường Cao đẳng Y khoa Tiên Đài. Đang học thì ông đột ngột thay đổi chí hướng, ông thấy cần chữa bệnh tinh thần cho người Trung Quốc, và ông chọn nghề văn để góp phần thay đổi tinh thần nhân dân. Nhà văn đã nhận thấy vai trò cách mạng quan trọng của văn học nghệ thuật. Trong bài Vì sao tôi viết tiểu thuyết (sách Nam xoang Bắc điệu tập), Lỗ Tấn viết: “Việc chọn đề tài của tôi đa phần từ những người bất hạnh của cái xã hội có bệnh, dụng ý là nêu bật bệnh tật để mọi người chú ý chạy chữa”. Trong truyện Thuốc, tác giả đã vạch trần một quốc dân có bệnh tật trong một xã hội bệnh tật, nêu bật căn bệnh u mê đờ đẫn của họ, dụng ý khiến mọi người chú ý chữa bệnh.
Lỗ Tấn là nhà văn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX. Văn Lỗ Tấn giàu tính chiến đấu, thể hiện thái độ lo lắng, tinh thần bi phẫn sâu sắc của thời đại. Ông dũng cảm vạch trần tội ác, bản chất xấu xa của giai cấp bóc lột, đồng thời phê phán sâu sắc những căn bệnh tinh thần của nhân dân mình, dân tộc mình để lưu ý mọi người tìm phương cứu chữa.
Lỗ Tấn cũng là nhà văn có ý thức kế thừa truyền thống nghệ thuật của dân tộc, kết hợp với sự tiếp thu tinh hoa của văn học thế giới. Ông là nhà văn đầu tiên đổi mới hình thức truyện ngắn, phát triển loại tản văn. Chính điều đó làm cho phong cách nghệ thuật của Lỗ Tấn vừa hiện đại vừa rất “Tàu”.
- Hoàn cảnh tác phẩm ra đời
Truyện Thuốc (nguyên văn là Dược) công bố lần đầu trên tạp chí Tân thanh niên năm 1919, số 5, quyển Sáu, tháng Năm. Truyện lấy việc nhà cách mạng dân chủ tư sản bị sát hại năm 1907 làm bối cảnh, phản ánh hiện thực xã hội Trung Quốc trước và sau cuộc Cách mạng Tân Hợi. Nhân vật Hạ Du nói đến trong truyện là chỉ Thu Cận, một nữ chiến sĩ cách mạng cuối thời Thanh. (Đây là cách ẩn dụ đặc biệt trong Hán văn: Hạ (chỉ mùa hạ) và Thu (chỉ mùa thu) đểu chỉ mùa, Du và Cận đều chỉ loại ngọc quý, hai chữ đều có bộ “ngọc”). Sau khi chiến sĩ cách mạng Từ Tích Lân bị sát hại. Nơi sát hại là Hiên Đình Khẩu, một đường phố lớn nội thành Thiệu Hưng, bên đường có nhà bia với biển hiệu đề bốn chữ “Cổ Hiên Đình Khẩu”. Trong truyện, Lỗ Tấn đã có ý bỏ chữ “Hiên”.
Tư tưởng nước của dân (trong truyện này được diễn đạt là Thiên hạ nhà Mãn thanh chính là của chúng ta) có tính dân chủ, cách mạng vì thời quân chủ chuyên chế, nước bị coi là của riêng một dòng họ trị vì (nước của vua – quan niệm này còn lưu dấu vết trong quốc gia – nghĩa đen là nước của một gia đình).
- PHÂN TÍCH TÁC PHẨM
- Phân tích theo kết cấu
Phần I: Kể về việc đi mua thuốc chữa bệnh ho lao cho cậu bé Thuyên. Bệnh ho lao của bé Thuyên không có thuốc nào chữa được và bố mẹ cậu đã dùng cách chữa đầy mê tín. Kết thúc phần này là tấm biển mục nát với mấy chữ Cổ…Đình Khẩu ám chỉ nơi hành hình của những người chiến sĩ cách mạng, nhằm nhấn mạnh sự bàng quan, ngu muội của người dân Trung Quốc trước một sự kiện như vậy.
Phần II: Kể về việc cậu bé Thuyên “dùng thuốc” bánh bao tẩm máu và niềm tin thành hiện thực của bố mẹ cậu về tác dụng chữa bệnh của thứ thuốc quái đản đó. Nhưng trái với niềm tin “sẽ khỏi ngay”, vừa ăn xong chiếc bánh bao tẩm máu, “Thuyên nghe tim mình đập mạnh không sao cầm nổi, đưa tay vuốt ngực. Lại một cơn ho”. Cậu vừa ho vừa nằm xuống. Sau đó, tuy không kể tiếp về các cơn ho nhưng phần kết (phần IV) cho hay bé Thuyên đã chết.
Phần III: Mọi người bàn về “thuốc” nhưng thực ra câu chuyện dẫn dắt đến người vừa bị hành hình. Cậu Năm Gù, bác Cả Khang, lão Nghĩa. Người chiến sĩ cách mạng (ở đây là Hạ Du) xuất hiện trong cách nghĩ, cách nhìn của mọi người như là một người điên. Không phải ngẫu nhiên mà ở cuối phần này, có sự lặp lại đến bốn lần chữ điên khi mọi người nhận xét về người chiến sĩ đó. Từ người già “râu hoa râm” cho đến chàng trai hai mươi tuổi, lão Năm Gù đều nói hắn điên. Một người cách mạng dám đấu tranh cho tự do, dân chủ, chống lại ách chuyên chế thì bị những kẻ u mê từ già đến trẻ gọi là điên. Sự mê muội đó là căn bệnh trầm kha của người Trung Quốc mà tác gải muốn khái quát.
Phần thứ IV: Trên khu nghĩa địa. Tác giả nhấn mạnh đường ranh giới giữa hai khu mộ – bị ngăn cách bởi một con đường mòn, bên tay trái là nơi chôn cất những người chết chém hoặc chết tù và bên tay phải là nghĩa nghĩa địa. Trên cả hai khu mộ đó có mặt hai người mẹ của hai đứa con trai đã chết – Thuyên và Hạ Du. Việc miêu tả tâm lý nhân vật ở phần này được chú ý: Mẹ Thuyên như vô hồn, “ngẩn ngơ như đang chờ đợi cái gì. Chính bà ta cũng chẳng biết bà ta chờ đợi cái gì nữa”. Còn người mẹ của người chiến sĩ cách mạng thì đầy mặc cảm: “cứ đi ba bước, lại đứng dừng lại. Chợt thấy bà Hoa ngồi bệt giữa đất đang nhìn mình thì bà kia ngập ngừng không dám bước tới nữa, sắc mặt xanh xao bỗng hơi đỏ lên vì xấu hổ, nhưng rồi cũng đánh liều đi tới nấm mộ bên trái đường mòn, đặt chiếc giỏ xuống”. Tâm lý hai nhân vật diễn biến nhanh. Bà Hoa, mẹ của Thuyên “bỗng thấy lòng trống trải” khi thấy trên mộ con và các nấm mộ xung quanh không có vòng hoa nào, chỉ có những bông hoa dại “trắng xanh, xanh xanh” mọc lác đác đây đó. Bà mẹ chiến sĩ Hạ Du từ chỗ mặc cảm tự ti vì con mình bị chết chém, nhìn thấy một vòng hoa nằm trên nấm mộ con thì bỗng “khóc to”, thốt lên những lời thương xót con và biểu lộ lòng căm thù những kẻ đã sát hại con bà. Bà hiểu đó là vòng hoa các đồng chí của con đã bí mật đặt trên mộ con: “Trời có mắt, thật tội nghiệp, chúng nó giết con thì rồi chúng nó sẽ bị báo ứng thôi! Con nhắm mắt thế cũng yên lòng”. Bà hoa “cảm thấy nhẹ người đi như cất được gánh nặng”, lại đi gần khuyên giải bà mẹ kia. Sự việc này khiến cho bà mẹ Hạ Du lẩm bẩm “thế là thế nào nhỉ?”. Có thể nghĩa ở đay là sự ngạc nhiên khi bà thấy có người đã cảm thông và chia sẻ về cái chết của con mình! Có người cho rằng Lỗ Tấn khi viết về hai gia đình họ Hoa (nhà lão Thuyên) và họ Hạ (gia đình Hạ Du), một nhà ăn bánh có tẩm máu của người nhà kia là có ẩn dụ về việc dân tộc Trung Hoa (còn gọi là Hoa Hạ) không biết đoàn kết. Nhưng nhà văn đã gửi gắm một niềm hy vọng về sự xích lại gần nhau khi tả hai người mẹ đau khổ an ủi nhau bên mộ.
Tiếng quạ kêu to và con quạ cất cánh bay về phía trời xa như một mũi tên một mặt tạo không khí bi ai, thê lương, đầy đe dọa; mặt khác, lại có hàm nghĩa là tiếng gào thét (một chủ đề mà Lỗ Tấn thường quan tâm) trong chốn tịch mịch, tiếng gào thét trong đám quần chúng nhân dân, có ý vị phản kháng rõ rệt.
- Phân tích theo nhân vật
- Nhân vật cậu bé Thuyên
Cậu bé Thuyên (Tiểu Thuyên trong nguyên văn) mắc bệnh ho lao, một thứ bệnh nan y, trước đây rất khó chữa. Xuất hiện trong cả ba phần đầu (I, II, III) của truyện đều với những cơn ho rũ rượi. Phần đầu, hết cơn ho này đến cơn họ khác, ngay cả sau khi ăn bánh bao tẩm máu để chữa bệnh. Những cơn ho khiến cho bố mẹ em, bác Cả Khang đều thương xót, ái ngại. Họ làm tất cả để cứu cậu bé, nhưng cũng không ngăn cản được cái chết của cậu bé. Bi kịch về sự u mê của con người trong cậu chuyện là họ gửi tất cả niềm hy vọng chữa chạy bệnh lao cho bé Thuyên bằng máu người chết chém.
- Hai vợ chồng “lão Thuyên”
Bố mẹ của bé Thuyên, nhất là người bố, là nhân vật mê muội, u mê điển hình. Ông ta thương con, muốn chữa bệnh cho con nhưng bằng một cách thức rất mê tín. Ông ta “bỗng ngồi dậy” trong lúc đêm chưa tàn, ánh sáng chập choạng, chi tiết thể hiện sự lo lắng cho bệnh tình của đứa con. Lão đi mua chiếc bánh bao tẩm máu của một người bị chém đầu để chữa bệnh cho con trai, “đứa con của gia đình mười đời độc đinh”, ngoài ra không chú ý quan tâm đến bất cứ điều gì khác. Ông chìm trong một niềm mê tín đến mê muội rằng bệnh lao của con lão có thể chữa được bằng cách kì dị như thế. “Lão sẽ mang cái gói này về nhà, đem sinh mệnh lại cho con lão, và lão sung sướng biết bao!”. Ông ta không hay biết và cũng không quan tâm đến chuyện lấy máu của ai, ai bị chết chém, vì sao lại bị chém. Đây chính là những căn bệnh trầm trọng mà Lỗ Tấn muốn vạch ra: mê tín, ngu muội, bàng quan đến tê liệt trước cuộc sống.
- Nhân vật bác Cả Khang
Cả Khang- kẻ sống bằng nghề hành quyết và bán máu huyết người bị chém – cũng có căn bệnh vô tình, mê muội như vậy. Một mặt, ông ta cũng rất tin vào phương thuốc quái đản này: “Cam đoan thế nào cũng khỏi. Ăn còn nóng hôi hổi thế kia mà! Bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì ăn mà chẳng khỏi!”. Những lời nói đó còn cho thấy ông hoàn toàn dửng dưng với cái chết đáng phải suy nghĩ của người vừa bị hành hình: “Thằng Thuyên nhà ông may phúc thật! Nhất định khỏi thôi mà! Chẳng trách ông cứ cười cả ngày!”. Xem cái chết của người khác đem lại may mắn, hạnh phúc của thằng bé Thuyên thì thật là nhẫn tâm đến vô tình.
Ông ta có biết người bị sát hại, nhưng hoàn toàn không hiểu gì về nguyên nhân cái chết của con nhà họ Hạ (Hạ Du) – một người dám đấu tranh chống lại ách chuyên chế của nhà Thanh. Ông ta chỉ biết “Cái thằng nhãi con ấy không muốn sống nữa, thế thôi”. Qua lời của ông ta, chứng tỏ ông ta (và hai người khác là lão Nghĩa, cụ Ba) chuyên sống nhờ vào những vụ tử hình chém đầu như thế. “Lần này, tớ chẳng nước mẹ gì. Đến cái áo nó cởi ra, cũng lão Nghĩa, cái lão đề lao, mắt đỏ như mắt cá chép ấy, lấy mất. May nhất có thể nói là ông Hoa nhà này (tức lão Thuyên), thứ đến cụ Ba. Cụ ta được thưởng hai mươi lạng bạc trắng xóa, một mình bỏ túi tất, chẳng mất cho ai một đồng kẽm!”. Người đọc hiểu ra cụ Ba đã tố giác thằng cháu nên được thưởng tiền vì “cái thằng nhãi con ấy thì chẳng ra cái thá gì hết. Nằm trong tù rồi mà còn dám rủ lão đề lao làm giặc!”. Họ hoàn toàn bàng quan trước cái chết của những người cách mạng bị tội tử hình.
Bệnh của cậu bé Thuyên là ở thân thể, còn bệnh của hai vợ chồng lão Thuyên và những người kia mới là căn bệnh tinh thần trầm trọng. Cùng bệnh với họ là những nhân vật vô danh trong đêm rạng sáng ấy mà ông Thuyên nhìn thấy: “Ngước đầu nhìn chung quanh, lão thấy bao nhiêu người kì dị hết sức, cứ hai ba người một, đi đi lại lại như những bóng ma”. Ông còn thấy ánh mắt cú vọ ngời lên từ một người không rõ mặt. Đám người đi xem tử hình đó xô đến như nước thủy triều. Đó cũng là những kẻ bị bệnh nặng. Trong Tự viết lời tựa, tập Gào thét, Lỗ Tấn nói đầy phẫn khích: “Phàm là dân nước ngu yếu, thì cho dù thể chất khỏe mạnh, cường tráng thế nào, cũng chỉ làm thứ phương tiện để người ta răn đe và làm kẻ đi quan sát bé nhỏ vô nghĩa. Bệnh tật chết chưa hẳn là bất hạnh. Điều mà chúng ta cần làm trước tiên là cải tiến tinh thần của họ”.
Về nhân vật bác Cả Khang, sách Giáo học tham khảo dụng thư (Sách dùng tham khảo dạy môn Ngữ văn) cho Tài liệu giảng dạy Trung học lớp trên (Nhân dân giáo dục xuất bản xã, 1995, tr.127) viết về nhân vật bác Cả Khang như sau: “Khang Đại thúc – bác cả Khang là công cụ thống trị và trấn áp quần chúng của giai cấp thống trị phong kiến hung bạo, tàn nhẫn, vô sỉ. Ông ta lấy việc giết người làm nghề nghiệp, lấy việc bán bánh bao có tẩm huyết người làm việc kiếm lợi, tuyệt nhiên không biết sỉ nhục, lại không biết đến tội. Đối với quần chúng rất dã man, hung ác; đối với cách mạng thì hận thù cực đoan. Đây là kẻ giết người cực kì tàn ác, không biết chán”.
Nhưng có một số cách hiểu khác, đề nghị không nên xem đây là nhân vật đơn giản, một chiều. bác Cả Khang thực ra cũng thuộc loại nhân vật u mê, mất hết cảm giác, thuộc loại nhân vật bàng quan, “người khách đứng xem” (nguyên văn chữ Hán là khán khách) của Lỗ Tấn, lão ngu muội mà độc ác như ông bố cậu Thuyên và những người vô danh tập trung trong quán trà. Câu chuyện trong quán trà và sự tường thuật của bác Cả Khang cùng thái độ của mọi người như anh chàng hai mươi tuổi nói lên tính bi kịch của người cách mạng chưa giác ngộ được quần chúng và sự ngu muội của quần chúng mà Lỗ Tấn muốn nhắn gửi.
- Nhân vật Hạ Du
Hạ Du chỉ có một thông tin hiếm hoi, với câu nói của anh: “Thiên hạ nhà Mãn Thanh chính là của chúng ta”. Như đã nói ở trên, đây là tư tưởng cách mạng, có tinh thần dân chủ, chống lại chế độ phong kiến chuyên chế. Nhưng bi kịch là ở chỗ, những người dân u mê không hiểu được ý nghĩa tích cực của tư tưởng đó.
Hạ Du là một người cách mạng. Anh hi sinh vì lí tưởng giành lại nước Trung Quốc cho người Trung Quốc. Nhưng quần chúng không hiểu nổi anh, không hiểu được lý tưởng mà anh phấn đấu. Vì họ mê muộ hay vì anh chưa giác ngộ quần chúng? Có lẽ cả hai. Trong nhận thức của mọi người (qua những người ở quán nước của lão Hoa bà về thuốc), Hạ Du là một người điên, uống được máu của anh ta (họ cho là như vậy) là điều may mắn. Ngay cả mẹ anh cũng không hiểu anh, thậm chí, còn thấy xấu hổ khi cúng cơm trên mộ con ở ngoài nghĩa địa – mộ tử tù. Nghịc lý này làm cho người đọc suy nghĩ. Nó đặt ra vấn đề cần giải đáp: Vì đâu người dân Trung Quốc lại mê muội đến vậy? Truyện Thuốc, do đó, hàm chứa một tầng nghĩa sâu xa: Phải tìm một phương thuốc làm cho quần chúng giác ngộ cách mạng và làm cho cách mạng gắn bó với quần chúng. Đó cũng chính là tư tưởng chủ đè tiềm ẩn của truyện ngắn này.
- Nhân vật kể chuyện của Lỗ Tấn
Lỗ Tấn là nhà văn hiện thực, cách kể chuyện của ông giản dị, tả thưc, có nét truyền thống nhưng cũng rất hiện đại, có ảnh hưởng của trường phái chủ nghĩa biểu hiện và tượng trưng khá rõ.
Bối cảnh của truyện Thuốc là bối cảnh hiện thực xảy ra năm 1907, khi nữ chiến sĩ cách mạng Thu Cận bị hành hình, phản ánh trung thực hiện thực xã hội Trung Quốc trước và sau Cách mạng Tân Hợi. Việc mua bánh bao tẩm máu người tử hình để chữa bệnh lao cũng là một hiện tượng có thực. Tác phẩm tố cáo tội ác của gia cấp thống trị nhà Thanh, chỉ ra sự ngu muội, u mê của quần chúng nhân dân, đồng thời ca ngợi dũng khi đáu tranh của nhà cách mạng. Lỗ Tấn sử dụng thủ pháp miêu tả chi tiết, chân thực các sự kiện, nhân vật. Có thể thấy việc tả thực hoàn cảnh nghèo khổ của lão Thuyên, tả thực diện mạo, hành động, tâm lý, ngôn ngữ nhân vật.
Lỗ Tấn cũng sử dụng bút pháp của chủ nghĩa tượng trưng, bút pháp của chủ nghĩa biểu hiện.
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc có nói đến tính tượng trưng của nhiều yếu tố trong tác phẩm như: tên Hạ Du như là ẩn dụ Thu Cận; đến họ hai gia đình như là kẻ thù không tự giác của nhau: họ Hoa và họ Hạ tượng trưng cho sự mất đoàn kết của dân tộc Hoa Hạ (Trung Hoa); tính tượng trưn của vòng hoa trên mộ Hạ Du, tiếng kêu của con quạ ở cuối tác phẩm, những tiếng ho của cậu bé Thuyên, vòng hoa trên mộ Hạ Du,… đều là những yếu tố có tính ẩn dụ, tượng trưng.
Người ta cũng bàn đến ý nghĩa biểu hiện của màu sắc trong tác phẩm. Có đến hơn ba mươi chỗ trong truyện sử dụng từ ngữ chỉ màu sắc để tả chân, truyền thần, diễn đạt tư tưởng chủ đề. Ví dụ, để miêu tả sự u mê, ngu tối của quần chúng nhân dân không được giác ngộ, cảnh bi ai của người cách mạng được tả trong không gian đêm tranh tối tranh sáng: “Tầng không xanh thẳm […] Ánh đèn trắng xanh sáng khắp hai gian quán trà”, con đường đến pháp trường sáng dần, “đường viền màu đỏ thẫm trên chiếc áo dấu (áo lính)”, đồng thời cũng diễn tả không khí thê lương, lạnh lẽo của mùa thu khi diễn ra cảnh tử hình và gợi liên tưởng đến máu. Màu sắc dùng để tả cảnh nghĩa địa cũng có ý nghĩa diễn tả sự yên tặng, lạnh lẽo, thê lương của nghĩa địa…
Cách kể chuyện của Lỗ Tấn cũng rất hiện đại: Khi câu chuyện được kể bằng ngôn ngữ người kể chuyện, khi thông qua cái nhìn của nhân vật, thông qua ngôn ngữ nhân vật.












Để lại một bình luận
Hãy trở thành người đầu tiên bình luận!