Fori.vn – Sản phẩm tốt – giá tốt nhất
Văn hoá Việt Nam thời Đại Việt
Bối cảnh lịch sử:
Thời tự chủ của quốc gia Đại Việt kéo dài suốt gần một thiên niên kỉ; từ năm 938 cho đến năm 1858. Giai đoạn này có nhiều biến đổi tự thân trong nội bộ quốc gia; dân tộc; đồng thời cũng lại là thời kì có biến đổi nhiều từ ngoại cảnh.
Sau chiến thắng Bạch Đằng; Đại Việt bước vào thời kì xây dựng quốc gia độc lập. Mở đầu là nhà Ngô; năm 938; Ngô Quyền không xưng là Tiết độ sứ nữa mà xưng là Ngô Vương và định đô ở Cổ Loa. Năm 968; Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn tan 12 sứ quân; thu giang sơn về một mối; đặt kinh đô ở Hoa Lư; đặt tên nước là Đại Cồ Việt; xây dựng quốc gia; củng cố chính quyền.
Năm 981; Lê Hoàn kế thừa quốc gia của nhà Đinh lập ra nhà tiền Lê. Năm 1010; nhà Lý lên ngôi; dời đô về Đại La; đổi tên thành này là thành Thăng Long; năm 1054; đổi tên nước là Đại Việt. Năm 1226; nhà Trần thay nhà Lý. Năm 1400; nhà Hồ thay thế nhà Trần để rồi đất nước Đại Việt rơi vào tay quân xâm lược nhà Minh. Năm 1428; sau một thời gian dài kháng chiến; Lê Lợi giành lại độc lập cho đất nước; lên ngôi vua; lập ra nhà Lê. Năm 1527; nhà Mạc giành ngôi của nhà Lê; sau đó là thời kì Nam Bắc triều và xung đột Lê – Mạc.
Từ năm 1570 đến năm 1786; Đàng Trong và Đàng Ngoài xung đột giữa một bên là nhà Lê – Trịnh và một bên là chúa Nguyễn. Năm 1771; anh em Tây Sơn khởi nghĩa; lập lại nền thống nhất đất nước vào năm 1786. Năm 1802; nhà Nguyễn thắng thế; đặt nền cai trị của mình trên toàn bộ đất nước. Năm 1858; thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam.
Như vậy; diễn trình lịch sử của Việt Nam từ năm 938 đến năm 1858 diễn ra với những đặc điểm sau:
– Các vương triều liên tục thay thế nhau xây dựng một quốc gia tự chủ. Sự thay thế các vương triều không làm đứt đoạn lịch sử mà vẫn khiến cho lịch sử là một dòng chảy liên tục.
– Đất nước được mở rộng dần về phương Nam; đến giữa thế kỉ XVIII; việc khai phá miền Nam Bộ đã cơ bản hoàn thành. Sau năm 1786 và năm 1802; đất nước Việt Nam đã có một lãnh thổ thống nhất từ Mục Nam Quan đến mũi cà Mau.
Mặt khác; thời kì này cũng có nhiều biến đổi từ ngoại cảnh; chủ yếu là các cuộc xâm lược liên tiếp của phong kiến phương Bắc và những cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước của cư dân Việt.
Bắt đầu từ năm 981; nhà Tiền Lê đã phải đương đầu với sự xâm lược của nhà Tống. Từ năm 1075 đến năm 1077; nhà Lý lại phải chiến đấu chống quân xâm lược Tống. Năm 1258; quân dân nhà Trần bước vào kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ nhất. Năm 1285; cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Nguyên lần thứ hai lại nổ ra và kết thúc với những chiến thắng vẻ vang.
Năm 1288; lần thứ ba giặc Nguyên Mông lại xâm lược Đại Việt để rồi chịu thất bại trước lòng yêu nước vô bờ của quân dân nhà Trần. Năm 1406; giặc Minh xâm lược và đô hộ Đại Việt. Nghĩa quân Lam Sơn sau mười năm “nếm mật nằm gai”; “căm giặc nước thề không cùng sống” đã làm nên chiến thắng; quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước ta năm 1428.
Năm 1784; quân Xiêm tràn vào xâm lược vùng Nam Bộ; với tài thao lược của Nguyễn Huệ và lòng yêu nước vô bờ bến của người dân; dân tộc ta lại chiến thắng vẻ vang. Năm 1788; giặc Thanh ồ ạt vào xâm lược Bắc Bộ; một lần nữa; người anh hùng áo vải Tây Sơn; với sự can trường quả cảm của trăm họ lại lập nên kì tích vào năm 1789.
Như thế; liên tục chống xâm lược là một nét đặt biệt của lịch sử Việt Nam thời tự chủ. Người dân cũng như các vương triều đều phải tiến hành cuộc chiến đấu tự bảo vệ mình và cộng đồng. Đó là thời kì lịch sử biến động dữ dội; đầy bão táp. Bọn xâm lược; dù dưới màu áo của vương triều nào; dù đến từ chân trời nào đều có chung một ý tưởng: Huỷ hoại nền văn hoá của cộng đồng cư dân bị chúng xâm lược.
Thế nhưng; người dân Việt mỗi lần bị xâm lăng là một lần trỗi dậy; chứng tỏ lòng yêu nước bất khuất của mình. Văn hoá Việt lại trỗi dậy; đạt đến những đỉnh cao. Do đó; khi nhìn nhận văn hoá Việt Nam thời tự chủ; các nhà nghiên cứu thường khẳng định rằng có ba lần phục hưng văn hoá dân tộc:
– Lần thứ nhất vào thời Lý- Trần. Sự phục hưng này diễn ra sau khi đất nước được giải phóng khỏi ách Bắc thuộc.
– Lần thứ hai vào thế kỉ XV; sau khi giặc ngoại xâm bị quét sạch ra khỏi bờ cõi; thì văn hoá dân tộc bước vào thời kì phục hưng từ đời Lê Thái Tổ đến đời Lê Thánh Tông.
– Lần thứ ba vào cuối thế kỉ XVIII; một lần nữa văn hoá dân tộc lại có sự phục hưng mãnh liệt. Mỗi lần phục hưng văn hoá dân tộc như thế; văn hoá Việt Nam lại có những thay đổi cả về lượng lẫn về chất; mà chúng ta chỉ có thể nhìn rõ khi xem xét từng giai đoạn văn hoá.
2.3.2. Thế kỉ X và thành tựu văn hoá triều đại Ngô- Đinh- Tiền Lê:
Sau khi đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng; Ngô Quyền xưng vương (939); đóng đô ở Cổ Loa; thực sự đã khôi phục nền độc lập và chủ quyền quốc quốc gia; chấm dứt 10 thế kỉ Bắc thuộc. Nói như sử cũ “ Ngô vương nối lại quốc thống”. Tài năng và uy tín cá nhân đã giúp Ngô Quyền duy trì được một chính quyền trung ương tập quyền; mặc dù lúc đó vẫn tồn tại trong nước nhiều thế lực của các hào trưởng địa phương; có xu hướng cát cứ.
Năm năm sau; Ngô Quyền mất (944); các con Ngô Quyền (Xương Ngập; Xương Văn) không đủ uy tín và sức mạnh để duy trì chính quyền trung ương tập quyền. Dương Tam Kha (em vợ Ngô Quyền) âm mưu cướp ngôi. Các thổ hào; lãnh chúa nổi lên khắp nơi; cát cứ chống lại chính quyền trung ương. Sau khi Xương Ngập (954) và Xương Văn (965) chết; triều Ngô thực tế không còn tồn tại; đất nước rơi vào thế hỗn loạn của nhiều tướng lĩnh chiếm cứ các vùng địa phương; đánh lẫn nhau. Sử cũ gọi là “Loạn 12 xứ quân”.
Lãnh thổ Việt Nam giữa thế kỉ X bao gồm phần đất Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Trên địa bàn đó; tồn tại 12 xứ quân cát cứ:
– Phú Thọ; Vĩnh Phúc có các xứ quân: Kiều Công Hãn; Nguyễn Khoan
– Hà Nội: Nguyễn Siêu
– Hà Tây: Ngô Nhật Ánh; Đỗ Cảnh Thạc; Kiều Thuận
– Bắc Ninh: Lý Khuê; Nguyễn Thủ Tiệp
– Hưng Yên: Phạm Bạch Hổ; Lữ Đường
– Thái Bình: Trần Lãm (sau liên kết với Đinh Bộ Lĩnh)
– Thanh Hoá: Ngô Xương Xí (con Ngô Xương Ngập)
Trước yêu cầu chấm dứt tình trạng cát cứ; Đinh Bộ Lĩnh đã đứng lên đánh bại các sứ quân đối địch; thống nhất đất nước; lập ra nhà Đinh. Năm 968; ông lên ngôi; xưng là hoàng đế (thường gọi là Đinh Tiên Hoàng) lấy niên hiệu Thái Bình; đặt tên nước Đại Cồ Việt; đóng đô ở Hoa Lư; xây dựng triều chính; bước đầu thống nhất đất nước và tiến thêm một bước là “bắt đầu định giai phẩm cho các quan văn võ và tăng đạo”. Thời Đinh; các nhà sư có vai trò rất lớn và rất được coi trọng.
Nhà nước lấy đạo Phật làm quốc giáo; định phẩm tước cho sư tăng; ngoài ra còn cử một số sư tăng ra làm quan; gọi là Tăng Quan. Đứng đầu Tăng Quan là các đại sư có quyền hành rất lớn. Nước ta lúc đó được chia làm 10 đạo. Về quân sự; Đinh Tiên Hoàng tổ chức quân đội thành 10 đạo; mỗi đạo 10 quân; mỗi quân 10 lữ; mỗi lữ 10 tốt; mỗi tốt 10 ngũ; mỗi ngũ 10 người. Đứng đầu quân đội là chức Thập đạo tướng quân.
Nhưng triều Đinh không tồn tại được bao lâu; năm 979; Đinh Tiên Hoàng và con trưởng là Đinh Liễn bị giết hại. Đinh Toản (mới 6 tuổi) lên nối ngôi. Các tướng lĩnh trong triều chia thành phe phái đánh lẫn nhau. Ở Trung Quốc; nhà Tống đang lăm le xâm phạm bờ cõi. Trong điều kiện đó; quân sĩ và một số quan lại đã suy tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên làm vua (thường gọi là Lê Đại Hành); lập ra nhà Tiền Lê. Ông nhanh chóng tổ chức lực lượng; tiến hành kháng chiến chống Tống thắng lợi; tiếp tục khôi phục và củng cố chính quyền.
Lê Hoàn vẫn đóng đô ở Hoa Lư; xây dựng cung thất; tổ chức các đơn vị hành chính; phân chia thành các lộ; phủ; châu. Bộ máy chính quyền trung ương đại thể mô phỏng theo quan chế thời Đường Tống. Ngoài chức Thái sư còn chức Tổng quản coi việc quân dân; chức Thái uý chỉ huy quân lữ. Năm 1008; Long Đĩnh sửa đổi lại và định ra một số điều khoản mới về quan chế; triều phục. Các hoàng tử đều được phong tước vương và ban cấp. Phật giáo vẫn là tôn giáo thịnh trị; các sư đều được trọng đãi.
Về binh chế; năm 1002; Lê Hoàn định quân ngũ; phân tướng hiệu làm hai ban văn võ; tổ chức quân cấm vệ. Dưới triều Lê; ở các địa phương có đặt chức An phủ xứ cai trị các lộ; tri phủ và tri châu cai trị các phủ; châu. Các quan lại địa phương ngoài quyền hành chính còn có cả quyền tư pháp.
Năm 1005; Lê Hoàn mất; các con tranh chấp ngôi vua; Lê Long Đĩnh nối ngôi; là người tàn ác; truỵ lạc; mắc bệnh phải nằm họp triều đình (nên thường gọi là Lê Ngoạ triều) không đủ năng lực và uy tín trị nước. Sau khi Lê Long Đĩnh chết (1009); triều đình đã suy tôn chỉ huy sứ Lý Công Uẩn lên làm vua; chấm dứt nhà Tiền Lê.
Vai trò: Các vương triều Ngô- Đinh- Tiền Lê vừa kế tục chính quyền họ Khúc- Dương vừa tiến lên tự khẳng định chính quyền quốc gia ở mức độ cao hơn. Và bằng hai cuộc kháng chiến thắng lợi chống quân Nam Hán 938 và quân Tống 981; hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập dân tộc; những thành tựu mà các vương triều đã xác lập được ở thế kỉ X về mặt nhà nước dẫu còn đơn giản nhưng đó chính là nền tảng; là cơ sở cho sự phát triển với quy mô lớn hơn ở các thế kỷ tiếp theo.
Thế kỉ XI- XV và thành tựu văn hoá triều đại Lý- Trần; Hồ:
Với việc dời đô về Đại La và đổi tên là thành Thăng Long; nhà Lý đã mở đầu một giai đoạn phục hưng văn hoá Đại Việt. Nhà Trần tiếp tục sự nghiệp của nhà Lý; đưa đất nước phát triển về mọi mặt.
Thành tựu văn hoá:
+ Về văn hoá vật chất:
Sau khi dời đô; tại Thăng long; nhà Lý cho xây dựng nhiều cung điện; đền đài; thành luỹ. Thành Thăng Long là một công trình xây dựng thành luỹ lớn nhất trong các triều đại phong kiến.Với hai vòng; thành dài khoảng 25km; bên trong lại có những cung điện cao ba; bốn tầng.
Kiến trúc thời Lý phát triển rất mạnh. Những di tích thời Lý còn lại đến nay như Chùa Giạm; chùa Một Cột; tháp Báo Thiên; tháp Sùng Thiện Diên Linh (chùa Dọi- Hà Nam); tháp Chương Sơn (Ý Yên- Nam Định)… đều là những công trình có quy mô lớn. Tuy nhiên các công trình này đều có sự hoà hợp với thiên nhiên xung quanh. Vì vậy; nói đến mĩ thuật thời kì này chủ yếu là kiến trúc các ngôi chùa và tượng Phật. Nghệ thuật điêu khắc trên đá; trên gốm thể hiện một phong cách đặc sắc và một tay nghề khá thuần thục.
Bố cục tượng gọn; đẹp và cân xứng nhưng không trùng lặp và đơn điệu. Từng chi tiết được chú ý khi chạm trổ; những đường cong mềm mại; gợi tả nên vẫn thanh thoát; nhẹ nhàng. Hình tượng con rồng thời Lý khá độc đáo. Bởi vậy; kiến trúc; mĩ thuật thời Lý có nét tương đồng với kiến trúc; mĩ thuật Chăm cũng như một số nước Đông Nam Á. Có thể; trong ý thức của người Việt để “giải Hoa” về văn hoá; người Việt vẫn có ý muốn quay trở lại với cội nguồn Đông Nam Á của mình. Tuy nhiên; người Việt không cực đoan; vẫn tiếp thu những tinh hoa của văn minh Trung Hoa.
Cùng với kiến trúc; các nghề thủ công rất phát triển ở thời Lý như dệt; gốm; mĩ nghệ… Nghề dệt đã có nhiều thành tựu. Từ vải; lụa đến những loại gấm đoạn với đủ các màu sắc và hoạ tiết trang trí đặc sắc đã được những người thợ dệt khéo tay và thông minh nhà Lý làm ra.
Nghề gốm là nghề có bước phát triển khá dài và đạt trình độ cao. Những lò gốm thời kì này làm ra khá nhiều gạch; ngói đặc biệt là loại ngói bằng sứ trắng; ngói tráng men và những loại gạch khổ lớn có trang trí và khắc niên hiệu đời Lý.
Thời Trần; nghề thủ công còn có những bước phát triển mới; hình thành những làng nghề chuyên sản xuất một mặt hàng nhất định; như làng Ma Lôi (Hải Hưng). Kinh thành Thăng Long mở rộng chia thành 61 phường. Tại đây không chỉ có chợ mà còn có phường thủ công và phố xá buốn bán.
+ Hệ tư tưởng:
Đặc trưng nổi trội thời Lý- Trần là sự dung hoà tam giáo (Nho- Phật- Đạo); còn gọi là chính sách Tam giáo đồng nguyên. Tinh thần văn hoá Lý – Trần là tinh thần khai phóng đa nguyên phối hợp Phật; Nho; Đạo cùng các tín ngưỡng dân gian khác kể cả ảnh hưởng của tôn giáo Chămpa.
Đến thế kỉ X; Phật giáo đã có những bước phát triển lớn; nhiều chùa chiền xuất hiện. Đó là các đại danh lam kiên hành cung; các trung danh lam và chùa của các đại sư. Tất nhiên là ngay từ cuối thời Bắc thuộc; đạo Phật đã có tư cách là một tác nhân của khối đoàn kết; là chỗ dựa tinh thần của dân tộc. Đặc biệt vai trò quan trọng của các trí thức Phật giáo lúc bấy giờ. Tinh thần đó vẫn được duy trì dưới thời Lý nhằm tạo ra một phần sức mạnh của sự kiến thiết.
Trong một chừng mực; chúng ta thấy khá rõ; đạo Phật thời này đã nhập thế; vì yêu cầu của con người mà tồn tại và phát triển. Sự dung hội với tín ngưỡng dân dã cũng là điểm nổi; để tạo ra một đạo Phật được Việt Hoá phù hợp với hoàn cảnh. Năm 1031; triều Lý bỏ tiền ra xây dựng 950 ngôi chùa. Năm 1129; mở hội khánh thành 84000 bảo tháp (tháp bằng đất nung). Nhà vua và tầng lớp quý tộc rất sùng mộ đạo Phật. Các sư tăng và tín đồ Phật giáo phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng.
Nhà chùa chiếm hữu khá nhiều ruộng đất; do đó có một cơ sở kinh tế nhất định. Nho sĩ còn thưa thớt; vì thế nhà chùa cũng là nơi đào tạo ra những sư tăng đồng thời là những tri thức thời đại. Những trí thức Phật giáo này đã nối liền Phật giáo với Nho giáo và Đạo giáo. Chính họ là người đặt nền cho chính sách tam giáo đồng nguyên. Với những người trí thức ấy; Phật giáo đã gạt bỏ những nhân tố thụ động để tham gia vào sự nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước.
Trong các thời Ngô; Đinh; Tiền Lê và Lý; các cao tăng đã tham gia chính sự ở triều đình. Chẳng hạn; sư Vạn Hạnh đã vận động đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua lập ra triều Lý; sư Đa Bảo và Viên Thông được tham dự bàn bạc và quyết định các việc trong triều như cố vấn của nhà vua. Với những người trí thức ấy; Nho giáo đã tiếp thu thêm những nhân tố từ bi; bác ái của nhà Phật phù hợp với tâm tư nguyện vọng của đời sống người Việt.
Phật giáo giai đoạn này còn tác động đến tư tưởng; tâm lí; phong tục và nếp sống của đông đảo nhân dân ở các làng xã. Nó có ảnh hưởng to lớn với kiến trúc; điêu khắc; thơ văn và nghệ thuật.
Thời kì đầu giai đoạn tự chủ Nho giáo chưa mạnh; nhưng nó đã cùng với chữ Hán tồn tại trong xã hội Việt Nam như một hiện tượng xã hội hiển nhiên. Chế độ giáo dục và thi cử theo tinh thần Nho giáo mới bắt đầu. Số lượng nho sĩ được đào tạo hãy còn ít; cho nên ảnh hưởng của nó trong xã hội còn hạn chế.
Để đào tạo nhân tài và tuyển lựa quan lại cho bộ máy hành chính; nhà Lý bắt đầu chăm lo cho việc học tập và thi cử. Năm 1070; nhà Lý dựng Văn Miếu; dựng tượng Chu Công; mở Quốc Tử Giám. Năm 1075; triều đình mở khoa thi đầu để chọn lựa nhân tài. Sau đó; nhà Lý còn mở các khoa thi đầu tiên với các môn thi: viết chữ; làm tính; hình luật… Từ đây; Nho giáo bắt đầu có địa vị trong xã hội.
Đến nhà Trần; vương triều đã chính quy hoá; tạo ra quy củ cho việc học hành; thi cử; lập Quốc học viện để cho con em quý tộc; quan lại; nho sĩ vào học. Tại lộ; phủ; châu; chức học quan được đặt ra. Không chỉ có những trường học của vương triều; các nho sĩ còn lập ra trường học ở các xóm làng. Thể lệ thi cử; học vị (bảng nhãn; thám hoa) dành cho ba người thi đỗ xuất sắc trong các kì thi Đình.
Bởi vậy; tầng lớp nho sĩ ngày càng đông đảo. Trong hàng ngũ quan lại; người xuất thân từ nho sĩ ngày càng nhiều hơn. Nho giáo dần phát triển lấn át Phật giáo. Đáng lưu ý là từ nền giáo dục này; tinh thần Khổng giáo đã thấm vào mọi ngõ ngách của đời sống người dân Việt Nam. Vì nền giáo dục học thuật kéo dài qua hàng trăm thế hệ ấy đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong đời sống văn hoá; trong tâm thế ứng xử của người dân Việt Nam.
Dĩ nhiên; tư tưởng Nho giáo du nhập vào Việt Nam; đặc biệt trong các tầng lớp bình dân người Việt có những độ “khúc xạ” riêng. Bởi lẽ; đất nước; cơ cấu làng xã; ảnh hưởng đến người dân Việt Nam khác với người dân phương Bắc. Mặt khác; Nho giáo chỉ “cấu trúc hoá lại tín ngưỡng; phong tục; nghi lễ đời sống theo hình thức Nho giáo”. Tựu trung; Nho giáo có ảnh hưởng sâu sắc trong giáo dục đạo đức; luân lí…; đặc biệt là ở những giá trị phổ quát mang tính nhân bản sâu sắc.
Những giá trị phổ quát này được tích hợp vào những giá trị văn hoá bản địa; phù hợp với tâm lí; tâm linh người Việt. Theo một số nhà nghiên cứu; trong sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV có hai khuynh hướng cơ bản: Một là tư tưởng chính trị xã hội gắn liền với thực tiễn dựng nước và giữ nước; hai là chủ nghĩa duy tâm có tính chất tín ngưỡng của Phật giáo.
+ Nền văn hoá bác học được hình thành và phát triển:
Nền văn học chữ viết được hình thành với một đội ngũ tác giả hùng hậu. Đội ngũ này được tạo ra từ hai nguồn: một là các trí thức Phật giáo; hai là các trí thức Nho giáo. Căn cứ vào tài liệu hiện có; từ thế kỉ X đến thế kỉ XII có trên 50 tác giả; trong số đó; đa số là các nhà sư; từ thế kỉ XIII đến hết thế kỉ XIV có trên 60 tác giả; trong số đó đa số là Nho sĩ. Phần chủ yếu trong văn học thời Lý là thơ; mà phần lớn lại là thơ của các nhà sư; do đó; nội dung liên quan đến triết học và giáo lí Thiền tông.
Tuy thế; nhiều bài thơ có ý nghĩa nhân sinh và giá trị văn hoá. Đáng lưu ý nhất là Nam quốc sơn hà của Lý thường Kiệt; Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Ở thời nhà Trần; đa số thi nhân đều khác thi nhân thời Lý; họ đều là các nho sĩ. Các tác giả như Trương Hán Siêu; Nguyễn Trung Ngạn; Chu Văn An; Phạm Sư Mạnh; Nguyễn Phi Khanh… còn để lại các tập thơ ở đời; đều xuất thân từ cửa Khổng sân Trình.
Mặt khác; bên cạnh dòng văn học viết bằng chữ Hán; thời kì này chứng kiến sự hình thành của văn học chữ Nôm. Chữ Nôm có thể có từ thời Lý nhưng thơ văn bằng chữ Nôm từ thời Lý thì chưa có bằng cứ. Sử sách có nhắc đến các tác giả có tác phẩm bằng chữ Nôm thời kì này là Trần Nhân Tông với Cư trần lạc đạo phú Đắc thử lâm tuyền thành đạo ca; Mạc Đĩnh Chi với Giáo tử phú; Huyền Quang với Vịnh hoa Yên Tử phú; … Ngoài ra; thời kì này các tác giả văn Nôm khác như Nguyễn Sĩ Cồ; Chu Văn An; Hồ Quý Ly.
Đặt trong diễn trình lịch sử văn hoá dân tộc; sự xuất hiện một nền văn học viết (cả hai hình thức: cả chữ Nôm và chữ Hán) đều là bước phát triển và về số lượng và chất lượng của nền văn hoá.
Cùng với văn học; các ngành nghệ thuật như ca múa; nhạc; chèo; tuồng cũng ra đời và phát triển. Trên cơ sở khai thác những giá trị của kho tàng văn hoá dân gian; thâu hoá những thành tựu văn hoá bác học Trung Hoa; Ấn Độ; các ngành nghệ thuật này rất nhanh chóng định hình bản sắc dân tộc. Nghệ thuật điêu khắc thời Trần mang tính chất phóng khoáng; khoẻ và thực hơn. Chẳng hạn như con rồng ở cánh cửa chùa Phổ Minh; như tiên nữ và nhạc công ở các bức chạm gỗ chùa Thái Lạc.
Cuối thời nhà Trần; nhà Hồ thay thế một khoảng thời gian rất ngắn (1400- 1407). Hồ Quý Ly đã tiến hành những cải cách có những mặt tiến bộ nhất định. Chế độ thi cử được chấn chỉnh theo hướng thiết thực. Hồ Quý Lý coi trọng chữ Nôm; làm thơ Nôm; dịch sách Nôm… Nhưng các chính sách cải cách này chưa đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội và chưa trả lời được những câu hỏi lớn của dân tộc đang đặt ra một cách gay gắt.
Thế kỉ XV- XIX và thành tựu văn hoá triều đại Lê- Tây Sơn- Nguyễn:
Đặc trưng văn hoá thời Minh thuộc và Hậu Lê:
Tháng 4- 1407; sau khi chiếm được Đại Việt; nhà Minh đổi nước ta thành quận Giao Chỉ. Nhà Minh đã tiến hành một chính sách vô cùng tàn bạo. Có thể nêu ra những đặc điểm của chính sách đó như sau:
– Thủ tiêu nền độc lập của Đại Việt; nhà Minh thực hiện chế độ chiếm đóng quân sự trên đất nước ta mà trong lịch sử chưa từng có. Trên toàn quốc; chúng lập ra 39 thành trì; trong đó có những thành rất lớn với một đạo quân khổng lồ. Đồng thời; chúng thiết lập một bộ máy hành chính; tài chính với hơn 800 cơ quan để vơ vét bóc lột của dân như Nguyễn Trãi đã từng tố cáo trong Bình Ngô đại cáo.
– Thủ tiêu nền văn hoá Đại Việt bằng mọi cách: đập phá các văn bia; đốt sạch tất cả những sách; tài liệu do người Việt viết; hoặc đem về Trung Quốc; bắt ăn mặc theo kiểu Trung Quốc; đem về Trung Quốc những thợ thủ công tài giỏi.
Rõ ràng; chính sách của nhà Minh đối với Đại Việt là nhằm huỷ diệt nền văn hoá của người Việt ta; nhằm đồng hoá người Việt thành người Hán. Toàn thể dân tộc Việt đang đứng trước một thử thách vô cùng ngặt nghèo. Sự cưỡng bức về chính trị; quân sự; cùng với sự cưỡng bức về văn hoá; dẫn đến sự giao thoa văn hoá cưỡng bức; cả dân tộc Đại Việt phải giữ gìn bản sắc văn hoá của mình là đặc điểm của diễn trình văn hoá thời kì này.
Cuộc tụ nghĩa ở Lam Sơn của người dân; của những người thức giả có lòng yêu nước; với lòng “căm giặc nước thề không cùng sống” đã dẫn đến chiến thắng của các dân tộc Đại Việt trước sự xâm lược và độ hộ của nhà Minh. Trang sử mới của đất nước được mở ra; văn hoá dân tộc bước vào thời kì phục hưng lần thứ hai.
Trước hết là ứng xử với tự nhiên; nhà Lê rất quan tâm đến đê điều và các công trình thuỷ lợi. Một số đê điều cũng được tu bổ lại. Một số đê mới ở ven biển được đắp để ngăn mặn có kè đá chắc chắn. Triều đình đặt chức Hà đê sứ để trông nom đê điều. Từ năm 1492; triều đình cho mỗi xã có một xã trưởng trông nom về đê điều và nông nghiệp.
Trong khi đó; với chủ trương lộc điền và quân điền; nhà Lê đã một mặt vẫn bảo tồn công xã; nhưng mặt khác biến công xã thành cơ sở bóc lột của chính quyền phong kiến; biến thành viên công xã thành những nông dân lệ thuộc vào Nhà nước. Đó chính là sự huỷ bỏ dần quyền tự trị của công xã; đẩy nhanh quá trình phong kiến hoá cơ cấu xã hội Việt Nam. Sự thay đổi này trên phương diện quan hệ sở hữu; không tác động nhiều đến cơ cấu tổ chức của làng xã Bắc Bộ. Chính quyền phong kiến phải chấp nhận một số tục lệ cổ truyền của công xã.
Sau một thời kì bị tàn phá nặng nề; các ngành nghề; làng nghề phát triển. Nhiều trung tâm thủ công nghiệp xuất hiện: Kinh thành Thăng Long chia lại thành 36 phường; nhiều phường có phố xá buôn bán và sản xuất thủ công nghiệp. Một số tên phường lúc ấy vẫn còn đến bây giờ như phường Yên Thái làm giấy; phường Thuỵ Chương và Nghi Tàm dệt vải; lụa; phường Hàng Đào nhuộm điều. Ngoài ra; nghề dệt; gốm; đúc đồng cũng phát triển. Riêng quan hệ buôn bán với nước ngoài; nhà Lê có phần bị hạn chế nên ngoại thương cũng không được phát triển bằng nhà Lý; Trần.
Về giáo dục; vương triều nhà Lê chú trọng mở mang giáo dục. Chế độ đào tạo nho sĩ được xây dựng theo một xu hướng rất chính quy. Tại kinh thành; cơ quan giáo dục lớn nhất là Quốc Tử Giám hay còn gọi là Thái học viện. Tại các viện; bên cạnh các trường do nhà nước quản lý còn có các trường học tư. Nội dung học tập kinh điển và lịch sử các vương triều phương Bắc.
Đối tượng học của các trường này có phần cởi mở hơn so với thời trước. Không những con em quý tộc quan lại được đi học đi thi; mà cả con em bình dân cũng được như vậy. Không kể giàu nghèo; lệ “ bảo kết hương thi” quy định rất rõ làng xã làng xã cần phải chịu trách nhiệm về người dự thi- Lệ “cung khai tam đại” bắt người đi thi phải trình báo rõ lí lịch ba đời. Cả hai lệ này đều không cho con nhà xướng ca; hoặc gia đình thân nhân có tội với triều đình được đi học và đi thi.
Chế độ thi cử của nhà Lê khá quy củ. Từ 1422 trở đi; cứ ba năm một lần tại kinh thành có thi Hội; tại các địa phương có thi Hương; triều đình đặt ra lễ xướng danh; lễ vinh quy và lễ khắc tên mỗi người thi đỗ vào bia đá dựng ở Văn Miếu gọi là bia tiến sĩ. Hệ thống quan lại của nhà Lê đều được tuyển lựa qua thi cử; hầu hết; chỉ có số ít là quý tộc; tôn thất.
Chính vì vậy; Nho giáo đã nhanh chóng chiếm một địa vị ưu thế trong đời sống tư tưởng; so với các tôn giáo khác. Nho giáo thời Lê chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo đời Tống. Trên phương diện triết học; Tống Nho tàng chứa phần duy tâm đậm hơn; biện hộ cho chế độ quân chủ chuyên chế. Phật giáo; Đạo giáo bị lấn át; nhất là Phật giáo mất vị trí ưu thế của mình đã từng có ở thời Lý; Trần. Thế lực của nhà sư thua kém nho sĩ. Chính sách độc tôn của Nho giáo của nhà Lê gặp không ít sự phản kháng trong dân gian; mà văn hoá dân gian là nơi thể hiện rõ rệt sự phản kháng này.
Ở lĩnh vực văn hoá; tổ chức đời sống xã hội; thành tựu văn hoá phải ghi nhận thời kì này là luật Hồng Đức. Năm 1483; Lê Thánh Tông sưu tập tất cả các điều luật đã ban hành rồi bổ sung; hệ thống lại và gọi là luật Hồng Đức. Bộ luật này được thi hành cho đến cuối thế kỉ XVIII; về sau có bổ sung một số điều; tổng cộng là 721 điều; chia làm 6 quyển; 16 chương.
Bộ luật này thật ra bao gồm cả luật hình sự; luật hôn nhân và gia đình; luật dân sự và luật tố tụng. Tất cả đều được trình bày dưới hình thức quy phạm hình luật; nên gọi là Lê triều hình luật. Nhìn từ góc độ văn hoá; bộ luật Hồng Đức là một bước phát triển quan trọng của lịch sử pháp quyền Việt Nam.
Ở loại hình văn hoá ngôn từ; dòng văn học chữ Nôm vẫn không ngừng phát triển. Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi với 254 bài thơ là khối lượng thơ Nôm cổ nhất hiện còn; khẳng định “Nguyễn Trãi là người mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam” và “Nguyễn Trãi đã làm cả một cuộc cách mạng mà từ trước ông khá lâu; tuy cũng đã có mấy người khởi xướng; nhưng điều ngẫu nhiên của lịch sử là chỉ những thành tựu của ông mới may mắn còn giữ được; và cái phần tài sản tinh thần còn giữ được ấy cho phép khẳng định rằng Nguyễn Trãi đã thành công; thật sự thành công.” (Nguyễn Trãi; khí phách và tinh hoa dân tộc; Nhiều tác giả; Nxb Khoa học xã hội; HN; 1980).
Từ sau cuộc cách mạng này; nền văn học tiếng Việt rồi đây còn đi rất xa. Sau Nguyễn Trãi là hội Tao Đàn của Lê Thánh Tông. Hai mươi tám hội viên của hội Tao Đàn để lại khá nhiều tác phẩm; về hình thức tuy còn khuôn sáo; nhưng có ít nhiều đóng góp cho tiến trình văn học; văn hoá dân tộc.
Ngoài ra; thời kì này còn khá nhiều tác giả văn chương thể hiện được lòng tự hào dân tộc; khí phách anh hùng và một chủ nghĩa yêu nước vô bờ bến như Nguyễn Mộng Tuân; Lý Tử Tấn. Nếu như ở phương diện văn chương; thời kì này có nhiều tác gia; tác giả lớn thì ở phương diện khoa học cũng có những tác giả tiêu biểu. Đó là Lương Thế Vinh với Đại thành toán pháp; Vũ Hữu với Lập thành toán pháp…
Một số loại hình như ca; múa; nhạc vẫn tiếp tục phát triển. Tuồng; chèo là hai thể loại sân khấu đã đạt đến sự ổn định về mặt nghệ thuật. Cuốn Hỷ trường phả lục của Lương Thế Vinh đã hoàn thành 1501 chính là tác phẩm lí luận đầu tiên về kịch hát cổ truyền; chứng tỏ bước phát triển của tư duy nghệ thuật dân tộc về phương diện lí luận.
Về kiến trúc và điêu khắc; sự tác động của hệ thống tư tưởng mà triều đình chọn lựa rất mạnh. Hình tượng con rồng thời Lê đã chuyển hoá khác con rồng thời Lý- Trần. Con rồng thời Lê đầu to; khoẻ; có sừng và lông gáy tua tủa; có chân năm móng quặp vào; trở thành biểu tượng cho quyền uy của phong kiến. Mặt khác; quyết định năm 1492 của vương triều nhà Lê giao cho làng xã quản lí đình làng sẽ tạo điều kiện cho vị thần làng của dân chúng ngự trị tại đây. Tín ngường thờ cúng thành hoàng có sự thay đổi cả về lượng lẫn diện mạo. Đình làng trụ sở thần linh ở mỗi làng quê và cũng mang chức năng mới- là công sở của làng xã; nơi ban bố chính lệnh của nhà nước.
Trên diễn trình lịch sử của văn hoá Việt Nam; thế kỉ XV là thời kì phát triển rực rỡ; nói cách khác; đây là thời kì phục hưng của văn hoá Đại Việt.
Đặc trưng của văn hoá từ thế kỉ XVI đến năm 1858:
Đặc điểm thời kì này là sự phân liệt về chính trị một cách gay gắt. Sự xung đột giữa nhà Mạc và nhà Lê rồi sự xung đột gay gắt giữa nhà Lê- Trịnh ở Đàng Ngoài với các chúa Nguyễn ở Đàng Trong; sự thống nhất đất nước buổi đầu do công lao của Nguyễn Huệ và sau đó là nhà Nguyễn của vua Gia Long đã tạo cho văn hoá giai đoạn này một diện mạo khá đa dạng.
+ Hệ tư tưởng:
– Trên thực tế; nhà Mạc chống lại tư tưởng độc tôn Nho giáo của nhà Lê. Nhưng từ trong tiềm thức giai cấp phong kiến vừa bảo vệ Nho giáo; vừa dùng Nho giáo làm kỉ cương cho đời sống xã hội. Từ cuối thế kỉ XVI; cho đến hết thế kỉ XVIII; đời sống tư tưởng ở Việt Nam càng trở nên phức tạp. Giai cấp phong kiến càng sa đọa; đánh mất vai trò làm chủ xã hội của mình. Thế kỉ XVIII đánh dấu sự đổ vỡ của Nho giáo; mọi giá trị của Nho giáo đứt tung không có cách gì có thể cứu vãn được.
Những lời của tiến sĩ Phạm Công Thế trả lời triều đình khi được hỏi: “Ngươi khoa giáp; sao lại theo giặc?” là “Danh phận không rõ từ lâu; thuận nghịch lấy gì mà phân biệt”; lời của Nguyễn Trang trả lời thầy học: “Sợ thầy không bằng sợ giặc; quý chúa không bằng quý thân” đã là những cứ liệu xác đáng chứng tỏ sự tan vỡ của Nho giáo trong đời sống xã hội. Tầng lớp nho sĩ bị phân hoá. Một số có tấm lòng ưu thời mẫn thế thì hoặc là lui về ở ẩn; hoặc tham gia các cuộc khởi nghĩa nông dân; đa số đua chen trong trường danh lợi. Sự suy sụp của Nho giáo kéo dài đến nửa đầu thế kỉ XIX.
Bắt đầu từ vua Gia Long tới vua Minh Mệnh; Thiệu Trị và Tự Đức; đều ra sức củng cố địa vị của Nho giáo trong đời sống tư tưởng văn hoá. Vua Minh Mệnh soạn ra “Mười điều huấn dụ”; vua Tự Đức diễn Nôm thành “Thập điều diễn ca” nhằm truyền bá tư tưởng Nho giáo. Dù có cố gắng bằng mọi cách nhưng các thế lực vương triều cũng không làm cho Nho giáo có được vị thế của nó như ở thế kỉ XV. Trong dân gian; luồng tư tưởng nhân văn chủ nghĩa trỗi dậy và phát triển.
– Bắt đầu từ thế kỉ XVI; một tôn giáo mới được du nhập vào nước ta; Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi: “Năm Nguyên Hoà thứ I (1533) đời vua Lê Trang Tông có một người Tây tên là Inêkhu theo đường biển lẻn vào giảng đạo Giatô ở các làng Ninh Cường; Quần Anh; Trà Lũ nay thuộc Nam Định.” Từ đó; các giáo sĩ Bồ Đào Nha; Tây Ban Nha tìm đến ngày càng đông để truyền giáo. Như vậy là trong đời sống tư tưởng Việt Nam có thêm một tôn giáo. Đó là Kitô giáo.
Sự phát triển của Kitô giáo ở Việt Nam có phần khác biệt với Phật giáo; Nho giáo ở Việt Nam. Thái độ của các vương triều đối với tôn giáo này qua các thời kì lịch sử có khác nhau. “Trong thế kỉ XVII; chính quyền Trịnh- Nguyễn nhiều lần ra lệnh cấm đạo; trục xuất giáo sĩ. Tuy vậy; nhiều giáo sĩ vẫn lén lút hoạt động để chuẩn bị cơ sở cho những hành động can thiệp và xâm lược sau này” (Lịch sử Việt Nam; Nxb Khoa học xã hội; Hà Nội; 1971)
Nhà Nguyễn giai đoạn này đối xử với Kitô giáo trong từng thời kì có khác nhau; lúc thì cho phép hoạt động; lúc thì cấm đoán ngặt nghèo. Nhưng dù sao; Kitô giáo cũng đã xuất hiện ở Việt Nam với tư cách một tôn giáo trong đời sống tư tưởng- văn hoá của người dân.
+ Sự xuất hiện của chữ quốc ngữ:
Diễn trình lịch sử của tiếng Việt đến thế kỉ XV đã đạt đến độ trong sáng; là một thứ ngôn ngữ giàu và đẹp. Từ thế kỉ XVII; khi vào nước ta để truyền đạo; các giáo sĩ đã học tiếng Việt để giảng đạo; dùng chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt. Chữ Quốc ngữ dần dần xuất hiện. Vì thế; các giáo sĩ người Bồ Đào Nha; Italia đã dùng chữ này để soạn sách giáo lí; và làm từ điển tổ chức việc đúc chữ in. Năm 1649- 1651; Alêchxan đơ rốt (Alexandre de Rhodes) đã cho ra mắt công chúng ở Roma cuốn từ điển Việt- Bồ- Latinh và cuốn Phép giảng tám ngày; một cuốn sách giáo lí bằng hai thứ tiếng Việt- Latinh…
Sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là công trình của nhiều giáo sĩ phương Tây; nhưng rõ ràng; trong công trình này; đóng góp của nhiều người Việt Nam không phải là nhỏ.
Sự xuất hiện của chữ Quốc ngữ sẽ đưa sự phát triển văn hoá lên một bước mới. Tuy nhiên; giai cấp thống trị thời ấy đã không nhận ra lợi ích của việc dùng chữ quốc ngữ. Mãi sau này; các thức giả của thời đại mới nhận thấy và sử dụng nó.
+ Đàng Trong và sự phát triển văn hoá Việt:
Giữa thế kỉ XVI; sau khi Nguyễn Kim chết; Trịnh Kiểm nắm tất cả quyền hành; tước đoạt mọi quyền lực của dòng họ Nguyễn. Con trai Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng phải xin vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558 rồi kiêm trấn thủ Quảng Nam năm 1570. Thực ra; trước khi Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm; lưu dân Việt đã vào đây để khai phá lập làng; lập ấp. Sau khi li khai với tập đoàn Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài và tiến hành những cuộc chiến tranh giữa hai tập đoàn phong kiến; các chúa Nguyễn đã biến Thuận – Quảng thành vùng đất trù phú. Rồi từ Thuận – Quảng các chúa Nguyễn mở rộng dần sự khai phá của mình vào Nam Bộ.
So với Đàng Ngoài; Đàng Trong chính là một vùng đất mới của người Việt.
Đặc điểm thiên nhiên có nhiều nét khác biệt so với vùng đất cội nguồn là nơi tổ tiên người Việt sinh sống lâu đời.
Do vậy; diễn trình lịch sử của văn hoá Việt Nam; vùng đất mới sẽ có nhiều nét riêng biệt. Người Việt sẽ phải xử lí một số quan hệ như sau để phát triển vốn văn hoá của mình:
– Thứ nhất là giữa vốn văn hoá ẩn trong tiềm thức họ mang theo từng vùng đất cội nguồn và điều kiện tự nhiên; xã hội của vùng đất mới.
– Thứ hai là giữa vốn văn hoá của tộc người Việt và vốn văn hoá của các dân tộc khác trên cùng địa bàn.
– Thứ ba là giữa vốn văn hoá của lưu dân khai phá và vốn văn hoá của lớp cư dân xa xưa; nhất là ở Nam Bộ.
Mặt khác; suốt hai trăm năm tạo ra cõi trời riêng ở phương Nam; các chúa Nguyễn đã tác động; dù là vô thức tạo cho văn hoá Đàng Trong tính chất khép kín; xa cách với văn hoá Đàng Ngoài. Tuy nhiên; với người dân; sự tác động vô thức của vương triều không làm mất đi hay mờ nhạt ý thức cội nguồn; cả về phương diện văn hoá; cho nên; tính thống nhất của văn hoá Việt vẫn được bảo đảm. Sự thống nhất quốc gia vào thời Quang Trung; sau đó vào thời vua Gia Long; tạo cho sự thống nhất này bền vững hơn.
+ Sự phát triển của các ngành văn hoá nghệ thuật:
Đầu tiên là văn học. Nét đáng chú ý của văn học giai đoạn này là văn Nôm; được khởi phát từ các giai đoạn trước đã càng ngày càng phát triển. Nguyễn Bỉnh Khiêm; Đào Duy Từ đều dùng chữ Nôm để sáng tác. Một số truyện Nôm (khuyết danh) như Truyện Vương Tương; Tô Công phụng sứ xuất hiện xuất hiện ở thế kỉ XVII- XVIII.
Sang đến thế kỉ XVIII- XIX; những tác phẩm bằng chữ chữ Nôm đã hoàn toàn chiếm ưu thế trên văn đàn. Những tác phẩm như Truyện Kiều của Nguyễn Du; thơ Hồ Xuân Hương; Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều; thơ của Bà Huyện Thanh Quan; những truyện Nôm dài như Phan Trần; Nhị Độ mai; Quan Ân Thị Kính; Phạm Công- Cúc Hoa; Phạm Tải- Ngọc Hoa; Hoàng Trừu; Thạch Sanh…là những tác phẩm có giá trị nhất; không chỉ với thời đại này; mà cả các thời đại sau.
Tương ứng với sự phát triển của văn học viết bằng chữ Nôm là sự phát triển của thơ lục bát và song thất lục bát. Hai thể này đã đạt đủ độ nhuần nhuỵ nhất của nó. Chưa bao giờ; nền văn học dân tộc lại đạt đến đỉnh cao rực rỡ như thời kì này.
Cùng với sự phát triển của văn học thành văn là sự nở rộ của những sáng tác dân gian. Truyện cười; truyện trạng; tục ngữ… đều nở rộ trong giai đoạn này. Các hình thức diễn xướng dân gian như hát tuồng; hát chèo; hát ả đào… đều phát triển rất mạnh mẽ.
Về kiến trúc; sự trỗi dậy của Phật giáo và Đạo giáo khiến cho những thiết chế của tôn giáo này đều được xây dựng khá nhiều. Đình; đền; chùa khá phát triển mang phong cách dân gian đậm nét. Thế kỉ XVI- XVII; kiến trúc đình làng phát triển mạnh. Bên cạnh các chủ đề tâm linh nhân thế; điêu khắc đình làng còn có những hoa văn phản ánh sinh hoạt văn hoá đời thường. Vị thành hoàng đã có những bước đi chắc chắn; về ngự tại đình làng; nhất là sau năm 1572; vương triều nhà Lê chủ trương san định thần tích của các vị thần ở các làng và giao cho Nguyễn Bính làm công việc này.
Thế kỉ XVIII; những cuộc chiến tranh nông dân bùng nổ như vũ bão đưa đến thắng lợi như vũ bão của phong trào Tây Sơn đã khiến cho tài năng sáng tạo của nghệ sĩ được phát triển mạnh mẽ. Những ngôi chùa; những đình làng được xây dựng trong giai đoạn này như đình Thạch Lỗi (Mỹ Văn- Hưng Yên); đình làng Đình Bảng (Bắc Ninh)…thể hiện được phong cách điêu khắc thế kỉ XVII; cảnh sinh hoạt ít dần trong các hoa văn trang trí; nhưng nghệ thuật trang trí thì vẫn tự nhiên; thoải mái.
Nghệ thuật tạc tượng thế kỉ XVIII đã đạt đến một trình độ điêu luyện. Tiêu biểu cho sáng tạo của người nghệ sĩ dân gian giai đoạn này là các pho tượng ở chùa Tây Phương. Đề tài được lấy từ sự tích của Đạo Phật nhưng các pho tượng vẫn mang phong cách Việt; hiện thực và gợi cảm.
Đáng chú ý là kiến trúc điêu khắc dưới thời các vua Nguyễn nửa đầu thế kỉ XIX ở kinh thành Huế. Năm 1802; vua Gia Long đã chọn Huế làm kinh đô thay cho Thăng Long. Trên một mặt bằng gần vuông; kinh đô Huế được xây dựng theo bố cục ba lớp thành bao bọc khác nhau là: kinh thành; Hoàng thành và Tử Cấm thành. Lối kiến trúc truyền thống cả ở Thăng Long và Tây Đô vẫn được tiếp nối với kiến trúc của kinh thành Huế.
Là một toà kiến trúc đồ sộ và kiên cố; kinh thành nghiêng về một thành quân sự hơn là một kinh đô. Hoàng thành gần vuông không nằm đúng trung tâm của kinh thành mà hơi lệch về phía Nam. Về cơ bản; Hoàng thành là thành bảo vệ cho bộ máy chính quyền nhà Nguyễn. Tử Cấm thành được bố cục theo hình chữ nhật; nằm hơi lùi về phía sau; nhằm tạo ra một thế giới biệt lập cho cuộc sống của nhà vua.
Điêu khắc Huế gồm tượng người và thú ở các lăng mộ; tượng các linh vật như tượng rồng; tượng các con cù; tượng ở các chùa và chạm nổi quanh cửu đỉnh. Tại các cửu đỉnh “mạch truyền thống điêu khắc thời Lê được tiếp thu và phát triển ở thời Nguyễn; nhưng nó đã được hiện đại hơn và phần nào tiếp cận với nghệ thuật tạo hình phương Tây đương thời.”
Tóm lại; diễn trình văn hoá Việt Nam ở thiên niên kỉ thứ hai (từ năm 938 đến năm 1858) đã phát triển với nhiều nét đặc biệt. Sự phát triển cả về lượng và chất của các thành tố văn hoá đã khiến cho văn hoá Việt Nam đạt đến trình độ rực rỡ nhất nhất cho đến lúc ấy. Ba lần văn hoá dân tộc phục hưng; khẳng định bản sắc và bản lĩnh của một dân tộc đã trưởng thành; một quốc gia văn hiến; là một sức mạnh để dân tộc ta hội nhập vào thế giới hiện đại; để đi qua những sóng gió; bão tố lịch sử ở giai đoạn sau.
Để lại một bình luận
Hãy trở thành người đầu tiên bình luận!