Fori.vn – Sản phẩm tốt – giá tốt nhất
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG Ở ẤN ĐỘ
Cuộc xung đột Hy Lạp – Kêman12 hay đúng hớn là cuộc xung đột Anh – Thổ đang diễn ra. Các cuộc khồi nghĩa ồ Malaba13 đang được du luận hết sức chú ý. Đế quốc Anh đang phải chống đõ khắp nơi. Nhắc lại lịch sử phong trào cách mạng Ân Độ lúc này là một việc lý thú.
Từ cuộc khởi nghĩa năm 1857, đê quốc Anh tưồng đã dìm được tinh thần cách mạng của nhân dân Ân Độ trong cuộc đàn áp đẫm máu và thiết lập vĩnh viễn sự bóc lột áp bức dã man của phương
Tây lên hai bờ sông Hằng. Chúng đã lầm to.
Năm 1880, nhà triết học Rama Kơrisơna dùng tôn giáo đê truyền bá cách mạng. Ông tôn thờ nữ thần Kali và khuyên đồng bào mình tôn thờ nữ thần, người mẹ của lực lượng phá hoại và xây dựng.
Đamôđa và Bankơrisơna kế tục sự nghiệp của Rama và giáo dục chủ trương cách mạng một cách dũng cảm, công khai. Tất nhiên cả hai đều bị bắt giữ và đày biệt xứ.
Đến năm 1897 tờ báo Kêxari mối ra đòi, người chủ trương là Tilắc. Bài báo đầu tiên của ông là bài văn xuất sắc “Lời than của Xiôgi”. Nội dung kể chuyện một ông vua cũ tỉnh dậy từ dưối mồ sâu, trồ lại thăm vương quốc thân yêu. Ông rất buồn khi thấy thần dân của mình phải chịu kiếp nô lệ khổ nhục. Ông kêu gọi tất cả những người An Độ hãy thức tỉnh và hợp lực đê lật đổ ách ngoại bang và giành lại nền độc lập mà ông đã truyền lại cho họ.
Tờ báo thường xuyên phổ biến cho độc giả tìm hiểu phương pháp cách mạng Nga.
Một phong trào giải phóng được lãnh đạo dũng cảm, cho đến khi tò báo bị đình bản và chủ nhiệm bị đi đày.
Nhân tiện xin nói rằng ở châu Á, ngưòi ta quan niệm sự chân thật và lương tâm nhà báo khác vối châu Âu. Nhũng nhà báo tư sản phương Tây sẽ cười nếu chúng ta nói vối họ rằng phần lốn các bài ở các báo xã hội chủ nghĩa như tò Kêxari, Vihari, v.v. đều viết không lấy tiền và đôi khi cả biên tập viên còn được trả công bằng những tháng, thậm chí bằng nhũng năm tù. Đấy là trưòng hợp của tờ Vihari, ba biên tập viên đều bị bắt và lần lượt bị kết án. Nhưng điều đó không làm thay đổi thái độ lẫn cách suy nghĩ của họ. Trong sô” “người làm công”, những ai có thể tự cho mình như thế?
Cuộc vận động đặc biệt lên cao từ sau chiến tranh Nga – Nhật. Hai sự kiện tiêu biếu sau đây đánh dấu tình hình tư tưồng của người bản xứ. Tượng nữ hoàng Víchtôria bị bôi nhọ vào đêm trưốc lễ kỷ niệm ngày sinh của nữ hoàng. Bài hát Banđêmataran – bài Mácxâye của người Ân Độ – được phổ biến nhanh chóng và được hát bằng tất cả các thổ ngữ của Ân Độ.
Những hội Amxilam Xanitơ – tổ chức rèn luyện tinh thần và thể lực – được thành lập khắp nơi như có phép lạ. Việc tẩy chay hàng hoá Anh và làm tan rã tinh thần các đơn vị lính bản xứ được nghiên cứu rất công phu.
Những nỗ lực không ngừng đó đã đem lại kết quả. Tháng 1 năm 1915, nhiều trung đoàn nổi lên bạo động và do sự gián đoạn của mậu dịch Anh – Ân, các ngân hàng thuộc địa ồ khu Xiti đã bị thua thiệt một triệu phrăng do những cổ phiếu không được thanh toán trong năm 1920.
Thảm hoạ của đất nưốc đã xoá bỏ sự phân biệt đắng cấp và tôn giáo. Người giàu người nghèo, quý tộc và nông dân, Hồi giáo và Phật giáo, đều hợp sức đoàn kết.
Nhiều nhân vật tiên tiến, nhiều giáo sư đại học như Hácđayan và những người khác đã hy sinh tài sản, đã từ chốĩ những chức vụ cao mà chính phủ thuộc địa muốn ban cho họ đê dễ bề khuất phục. Họ đi từ làng này qua làng khác, kêu gọi đấu tranh cho độc lập. Sinh viên, học sinh cũng tham gia công tác tuyên truyền.
Về phía mình, những chiến sĩ chủ trương hành động trực tiếp cũng không ngồi yên. Họ chịu trách nhiệm thủ tiêu những quan chức thiên vị, những kẻ phản bội và những tên ác ôn cảnh sát chính trị. Vối những chức vị rất kêu, các phó vương và thống đôc cũng không làm cho họ sợ, những sự kiện năm 1907, 1908 và 190914 đã chứng minh điều đó. Năm 1916, một cậu bé 16 tuổi đã ném bom ngay giữa đường và giữa ban ngày vào xe của tên cầm đầu nổi tiếng của cục điều tra. Lòng dũng cảm không trừ già hay trẻ.
Danh sách những người bị hy sinh kéo dài rất đau xót. Trong mười năm, không kể những vụ thảm sát tập thể, đã có hơn 200 ngưòi lấy máu đào tưối gốc cây cách mạng và lý tưồng. Trong số những người tuẫn tiết, có 70 sinh viên, 16 thầy giáo, 20 điền chủ, 23 hay 25 nhà buôn, 7 thầy thuốc, 20 công chức. Trong số những ngưòi hy sinh có 50 ngưòi tuổi chỉ từ 16 đến 20!
Vì vậy mà bọn chủ hốt hoảng, gần như kinh hoàng. Một nhân vật thượng lưu đã thốt lên: “Nếu sự việc đó còn tiếp diễn, thì những ngưòi đáng kính của chúng ta buộc phải cuốn gói khỏi nơi này”.
Lúc đó, song song vối bộ máy đàn áp thẳng tay, ngưòi ta thi hành một chính sách ngu dân hoàn toàn.
Các hội “Xamiti” bị giải tán, hội viên bị bắt giam, mọi cuộc hội họp và các tổ chức chính trị đều bị ngăn cấm. Các biện pháp “cấp cứu” mọc lên như nấm. Trận mưa đàn áp đó chỉ làm cho hoa cách mạng thêm nở rộ.
Một cuộc tổng khởi nghĩa đang được chuẩn bị trong năm 1914 và 1915. Không may cuộc khởi nghĩa bị thất bại. Hàng trăm người lưu vong trở về nưốc vối quyết tâm giáng một đòn đập tan ách thống trị đang đè nặng đất nưốc. Họ bị phát hiện và đều bị bắt giữ trưốc khi đặt được chân lên quê hương mà họ đã hứa hẹn sẽ giải phóng hoặc hy sinh. Một lần nữa, bọn kẻ cắp lại gặp may!
Nhưng lò lửa đã nhóm lên, không gì có thể dập tắt nổi. Các khẩu hiệu được truyền từ ngưòi này qua ngưòi khác. Các hội “Xamiti” bí mật hội họp. Nhũng cuộc lạc quyên vì độc lập được tiến hành nhanh chóng, hoặc là do tự nguyện đóng góp, đôi khi bằng hình thức “đaicốt”.
Chúng tôi thấy cần phải giải thích một tí về chữ “đaicốt”, mà từ trưốc đến nay những ngưòi phương Tây thưòng hiểu sai. Người Anh gọi là “đaicốt” cũng như ngưòi Pháp gọi cưốp bóc. cả hai đều không hề phân biệt giữa sự cưốp bóc vối sự đóng góp đôi khi bắt buộc cho sự nghiệp chung, cũng như họ không hề phân biệt giữa những ngưòi yêu nưốc đấu tranh cho đất nưốc mình vối bọn cặn bã ở thành thị.
Muốn làm một việc gì, tất nhiên phải có tiền vốn, và muôn có vốn, phải biết nơi nào có để tìm.
Để chứng minh sự cương trực của những hội viên “Xamiti” phụ trách tài chính của Uỷ ban cách mạng, chỉ cần kể những thí dụ sau đây:
Một trong những điều của điều lệ hội “Xamiti” nêu rằng những người gia nhập hội phải luôn nhố rằng họ đang hoạt động cho cách mạng nhằm thiết lập lại những quyền đã bị chà đạp chứ không phải vì sự hưồng thụ cá nhân của một sô ngưòi. Rằng tất cả các hội viên phải từ bỏ việc uống rượu, từ bỏ mọi thứ xa hoa phù phiếm.
Mỗi lần đóng góp bắt buộc hay đaicôt, ngưòi đóng được gửi đến một biên lai. Sau đây là một đoạn trích trong biên lai:
“Đồng bào thân mến, bạn phải biết rằng muôn giải phóng đất nưốc thân yêu của chúng ta thoát vòng nô lệ, thì cần phải có sự hy sinh, lòng tin cậy và cảm tình của tất cả đồng bào chúng ta. Nếu tất cả những người có khả năng như bạn đều hiếu những khó khăn của công việc chúng tôi và tự nguyện đóng góp vào sự nghiệp của chúng tôi, thì chúng tôi không bị buộc phải quấy rầy bạn như thế này; nưốc Nhật được tự do và hùng cường là nhò có lòng hy sinh và sự thắt lưng buộc bụng của toàn dân Nhật. Anh linh của Tố quốc hãy hun đúc trái tim và soi sáng tâm thần của anh em chúng ta! V.V.. Ký tên: I.B. Thư ký tài chính của phân cục B. của Hội Độc lập Ấn Độ”.
Phong trào càng lan rộng càng được củng cô. Khi thấy đã tương đôi mạnh, phong trào ròi khỏi bóng tôi để ra giữa ánh sáng, dưối những con mắt kinh ngạc của nhà cầm quyền. Một đại hội được triệu tập vối hai vạn đại biểu có mặt. Một vài đảng viên “xã hội” Anh cũng tham dự, họ được tiếp đón không lấy gì làm nồng nhiệt lắm vì những lý luận màu hồng nhạt của họ.
Mahatma Găngđi đã đặt viên đá đầu tiên để dựng lên thuyết bất hợp tác và bất bạo động. Đường lôi. đó được theo đuổi một cách
thắng lợi. Trẻ em ròi bỏ trường học của người Anh. Các luật sư ròi khỏi toà án của người Anh. Các viên chức và thợ thuyền không làm việc trong các công sở và nhà máy mà chủ là ngưòi Anh. Không còn quan hệ, không còn buôn bán giữa người Anh và ngưòi Ân. Đe giữ vững phong trào, cần phải có những quỹ cứu tế. Trong thòi gian ba tháng, người ta đã quyên được hơn sáu mươi triệu phrăng. Những người An Độ giàu có lấy nhà mình làm trưòng học. Những vụ kiện được đưa ra xử trưốc các toà án bản xứ mối thành lập. Một sô” người An Độ tự nguyên góp đến ba mươi triệu đồng một năm “cho đến khi độc lập hoàn toàn”.
Trưốc làn sóng như vậy, lá cò không bao giờ thấy mặt trời lặn có nguy cơ rơi xuống mặt trăng. Đế quốc Anh không biết xoay xở cách nào. Chúng tưởng rằng ký một hiệp định thương mại vối nưốc Cộng hoà Nga là có thế ngăn chặn tư tưởng cách mạng thâm nhập An Độ, như một tờ giấy thấm hút một giọt mực!
Chúng dùng Côngxtăngtin làm cái chụp đê dập tắt lò lửa của phong trào Liên Hồi giáo. Chúng nhặt Phayxan lên đế chông đõ toà nhà đế quốc đang sụp đổ ồ phương Đông. Và sau nữa thì sao? ít ra chúng có thể tự an ủi khi thời hạn ròi khỏi An Độ của chúng đã đến, bằng cách tự nhủ rằng chúng đã tàn nhẫn kéo theo sự sụp đổ của đê quốc Pháp, đang hoạt động ồ Đông Dương một cách xấu xa.
NGUYỄN ÁI QUỐC
Tạp chí La Revue Communiste, số 18-19, tháng 8, 9-1921.
Để lại một bình luận
Hãy trở thành người đầu tiên bình luận!